Cơ quan tình báo Mỹ đã tài trợ cho tri thức Italia như thế nào?

Thứ Ba, 17/05/2011, 15:44
Vào giai đoạn cao điểm của Chiến tranh Lạnh, chính phủ Mỹ đã dành một nguồn tài lực quan trọng cho chương trình tuyên truyền văn hóa bí mật nhắm vào Tây Âu; chương trình này do CIA trực tiếp chỉ đạo, thông qua một cơ quan bình phong là Đại hội vì tự do văn hóa (Congress for Cultural Freedom) do điệp viên Michael Josselson thành lập trong khoảng 1950-1967.

Vào lúc cực thịnh, Đại hội có các Văn phòng tại 35 quốc gia (trong đó có một vài Văn phòng ở ngoài châu Âu) và hàng chục trí thức được trả lương; Đại hội xuất bản khoảng hai chục tạp chí danh tiếng, tổ chức triển lãm nghệ thuật, hội nghị quốc tế tầm cỡ và tài trợ cho các nhạc sĩ và các nghệ sĩ khác bằng các loại giải thưởng khác nhau. Đại hội có nghĩa vụ "kéo các trí thức châu Âu khỏi vòng kiềm tỏa của chủ nghĩa Mác, đưa họ về gần với lối sống Mỹ, tạo thuận lợi cho việc thực thi các lợi ích chiến lược của chính sách đối ngoại Mỹ".

Một vài nhà văn châu Âu được tài trợ để xuất bản các cuốn sách có nội dung chống Cộng, như tại Italia có Pane e Vino (Bánh mì và rượu vang) của Ignazio Silone. Trong giai đoạn tị nạn tại Thụy Sĩ, Ignazio Silone có quan hệ với Alan Dulles, khi đó lãnh đạo cơ quan tình báo Mỹ tại châu Âu và sau chiến tranh là người khởi xướng thành lập Đài Châu Âu tự do, bình phong của CIA dưới vỏ bọc Ủy ban quốc gia vì tự do châu Âu (National Commette for Free Europe); vào tháng 10/1944, Serafino Romualdi, một điệp viên của OSS (Cơ quan nghiên cứu chiến lược, tiền thân của CIA), được cử tới biên giới Pháp-Thụy Sĩ với sứ mạng bí mật đưa Silone vào Italia.

Silone cùng với Altiero Spinelli và Guido Piovene đã đại diện cho Italia tại hội nghị thành lập Đại hội tại Berlin vào 1950; Michael Josselson cũng đến dự và nhận đuợc khoản tài trợ 50.000 USD từ Kế hoạch Marshall. Jean-Paul Sartre và Albert Camus được mời nhưng đã từ chối tham dự hội nghị trên, sau đó họ đã lên tiếng công khai tố cáo vụ việc này.

Ban đầu, trong số những chủ tịch danh dự bên cạnh Bertrand Russel, Benedetto Croce, người ta thấy có mặt hầu hết các nhà triết học châu Âu-Đại Tây Dương. Benedetto Croce, 80 tuổi, được tôn vinh là cha đẻ của chủ nghĩa chống phát xít ở Italia, công khai lên tiếng chống Mussolini. Khi xảy ra cuộc đổ bộ của quân đồng minh vào Sicile, Croce đã gặp được William Donovan, tình báo viên cao cấp nhất của Mỹ vào thời đó.

Chi nhánh của Đại hội tại Italia có tên là Hiệp hội Italia vì tự do văn hóa, do Ignazio Silone thành lập vào cuối 1951 và trở thành Trung tâm, trên cả phương diện hậu cần và kinh tế, qui tụ khoảng một trăm nhóm văn hóa như Liên minh sinh viên (Union estudiantine), Phong trào liên đoàn châu Âu  Altiero Spinelli, các Trung tâm hành động Dân chủ, phong trào cộng sản Adriano Olivetti...

Một trong số các văn phòng của Đại hội được mở tại Roma trong lâu đài Pecci-Blunt, nơi Mimi, bà chủ lâu đài, điều hành một trong những xa-lông kín đáo và đông khách nhất Thủ đô Italia. Cách đó không xa là lâu đài lịch sử Caetani mà trước khi xảy ra sự kiện bi thảm liên quan đến vụ bắt cóc Moro, do một bà hoàng xa-lông khác điều hành, một "Mạnh Thường Quân" Mỹ có quan hệ chặt chẽ với Đại hội là Marguerite Chapin Caetani.

Bà Caetani cùng với tạp chí Botteghe oscure của mình đã quảng bá mạnh mẽ cho các nhà văn, nhà thơ Italia của thế kỷ 20. Một sự trùng hợp, con rể của bà ta là ngài Hubert Howard, cựu sĩ quan tình báo đồng minh chuyên về chiến tranh tâm lý và quan hệ rất thân với cháu nội Tổng thống Roosevelt: Kemit Roosevelt, người ban đầu tham gia OSS, sau gia nhập CIA và là một trong số những người ủng hộ mạnh mẽ chiến tranh tâm lý.

Một trong số các cộng tác viên thân tín của bà Caetani là Elena Croce, con gái của triết gia Benedetto, có chồng là Raimondo Craveri, nhân viên đơn vị tình báo du kích, người được giao nhiệm vụ phát hiện các chính trị gia có năng lực cho Đại sứ quán Mỹ sau giải phóng. Còn Elena có trách nhiệm lựa chọn những nhà văn hóa có thể nói chuyện được. Họ có mối quan hệ rộng rãi; họ quen biết Henry Kissinger và ông chủ tương lai của Fiat, Gianni Agnelli và nhất là nhân vật chi phối ngành tài chính Italia, sáng lập viên ngân hàng Mediobanca, Raffaele Mattioli.

Người Mỹ tin tưởng Mattioli tới mức mà ngay từ 1944 khi chiến tranh chưa kết thúc, họ đã nói chuyện với anh ta về các chương trình tái thiết. Để có thể giành được nhiều tiền hỗ trợ, Raffaele đã bỏ nhiều công sức bí mật theo dõi Đảng cộng sản Italia (PCI) và anh ta đã cài cắm được một mạng lưới cơ sở khi ở  Ventennio. Như vậy tại Italia, ngoài các mạng lưới cơ sở bí mật, Đại hội còn tạo dựng được một thứ chủ nghĩa chống cộng điên cuồng, nhưng công khai, tân tiến kể cả trong cánh tả.

Những nguồn lực dành cho tuyên truyền văn hóa châu Âu-Đại Tây Dương gần như vô tận. Giai đoạn đầu của Kế hoạch Marshall, mỗi quốc gia nhận viện trợ cũng phải đóng góp bằng cách đưa vào ngân hàng trung ương của mình một khoản tiền bằng số tiền Mỹ cung cấp. Sau này Mỹ và các quốc gia nhận viện trợ ký thỏa thuận song phương, theo đó Mỹ sẽ giữ lại 5% khoản tiền trên: khoảng 10 triệu USD hàng năm cho các hoạt động bí mật của CIA. Khoảng 200.000 USD rút từ ngân quĩ trên được dùng cho các hoạt động của tổ chức Đại hội năm 1951. Hàng tháng chi nhánh của Đại hội tại Italia nhận được hàng nghìn USD thông qua tài khoản của Tristano Codignola, phụ trách nhà xuất bản La Nuova Italia.

Tự do văn hóa không còn là thị trường dễ dàng. Trong 17 năm thành lập, CIA đã rót cho Đại hội và các dự án ít nhất 10 triệu USD. Một đặc điểm của chiến lược tuyên truyền văn hóa là phải tổ chức thường xuyên một mạng lưới các nhóm "bạn hữu" riêng trong một consortium không công khai: đó là một liên minh các quĩ nhân đạo, doanh nghiệp và tư nhân, cộng tác chặt chẽ với CIA nhằm tạo ra các vỏ bọc và các kênh tài trợ để thực thi các kế hoạch bí mật tại châu Âu.

Người chủ xướng của consortium này là Allen Dulles, từ 5/1949 đã chỉ đạo việc thành lập Ủy ban quốc gia vì một châu Âu tự do (National Committee for a Free Europe), về hình thức là sáng kiến của một nhóm cá nhân người Mỹ còn trong thực tế là một dự án hết sức tham vọng của CIA.

Ủy ban quốc gia có quyền hãnh diện với hàng loạt thành viên danh tiếng, các nhà doanh nghiệp và các luật sư, các nhà ngoại giao và các lãnh đạo Kế hoạch Marshall, các ông chủ báo giới và các đạo diễn điện ảnh: từ Henry Fort II, Chủ tịch General Motors đến bà Culp Hobby, Giám đốc Moma; từ C.D. Jackson của ban lãnh đạo Time-Life tới Hughes, Đại sứ bên cạnh NATO; từ Cecil B. De Mille tới Dwight Eisenhower. Tất cả những người trên đều biết rõ vấn đề tức là thuộc loại "cùng hội cùng thuyền". Ngay từ năm đầu thành lập, số hội viên đã lên tới hơn 400 và ngân quĩ đã gần 2 triệu USD. Chỉ riêng Đài tự do châu Âu (Radio Free Europe) đã được nhận tới 10 triệu USD, dùng để chi cho hoạt động của 29 trạm phát thanh bằng 16 thứ tiếng nhằm vào các quốc gia cộng sản châu Âu, sau "bức màn Sắt".

Crusade for Freedom là bộ phận chịu trách nhiệm tiếp nhận ngân quĩ từ Ủy ban quốc gia và diễn viên trẻ giữ vai trò phát ngôn viên chính là Ronald Reagan. Việc sử dụng các quĩ nhân đạo để chuyển tiền cho các dự án của CIA là rất hiệu quả mà không phải giải thích cho các đơn vị tiếp nhận về nguồn gốc của ngân khoản đó. Vào năm 1976, một tiểu ban của Quốc hội được thành lập để điều tra về hoạt động của các cơ quan đặc biệt Mỹ đã đưa ra các con số sau: trong giai đoạn 1963-1966 đã có 700 khoản tiền ở mức trên 10.000 USD được 164 quĩ phân phát, ít nhất 108 (một phần hoặc toàn bộ) do CIA cung cấp.

Cũng cần nói thêm rằng có gần một nửa số tiền do CIA tài trợ đã bị 164 quĩ trên lạm dụng trong thực thi các hoạt động quốc tế. Nhiều người nghĩ rằng các quĩ danh tiếng như Ford, Rockefeller và Carnegie có "cách tài trợ tốt và tin cậy nhất". Bên trong Quĩ Ford, có một đơn vị chuyên trách quan hệ với CIA, để mỗi khi cần cơ quan tình báo Mỹ có thể trao đổi trực tiếp như việc sử dụng vỏ bọc hoặc thông qua kênh của Quĩ chuyển tiền cho các kế hoạch tình báo. Đơn vị này gồm hai cán bộ và chủ tịch Quĩ, John McCloy, người từng giữ chức Bộ truởng Quốc phòng, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, ngân hàng Chase Manhattan, tài sản của gia đình Rockefeller và Hội đồng đối ngoại, đồng thời là luật sư tin cậy của Sept Sœurs Beau curriculum.

Một trong số các lãnh đạo đầu tiên của CIA ủng hộ Đại hội quốc gia vì tự do văn hóa là Frank Lindsay, cựu chiến binh OSS, người vào năm 1947 đã có báo cáo nội bộ khuyến nghị Mỹ thành lập một lực lượng bí mật trong Chiến tranh Lạnh. Trong các năm 1949-1951, với tư cách Phó phòng Điều phối chính sách (Office of Policy Coordination - OPC), một đơn vị đặc biệt được thành lập bên trong CIA chuyên trách các chiến dịch bí mật, Lindsay trở thành người chịu trách nhiệm huấn luyện các nhóm Stay Behind tại châu Âu, nổi tiếng tại Italia dưới cái tên Gladio. Vào 1953, ông ta chuyển sang Quĩ Ford, nhưng vẫn giữ các mối liên hệ với các bạn cũ tại CIA.

Vào năm 1953, khi Cecil B. De Mille nhận chức Cố vấn đặc biệt của chính phủ Mỹ về điện ảnh tại Motion Picture Service (MPS), Lindsay chuyển tới làm việc tại văn phòng của C. D. Douglas. MPS được chính phủ Mỹ cấp rất nhiều kinh phí để trở thành một xí nghiệp thực thụ sản xuất phim ảnh phục vụ cho mục tiêu truyền bá văn hóa Mỹä. Mouvement Européen (Phong trào Châu Âu), nhóm gây ảnh hưởng mạnh nhất cho sáng kiến một châu Âu thống nhất gắn bó với Mỹ, qui tụ nhiều tổ chức và có nhiều hoạt động theo xu hướng hội nhập chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa. Phong trào do Winston Churchill (ở Anh), Paul-Henri Spaak (ở Pháp) và Altiero Spinelli (ở Italia) lãnh đạo, nằm dưới sự kiểm soát của CIA thông qua một tổ chức vỏ bọc là American Committee on United Europe (Ủy ban Mỹ tại toàn Âu).

Trong mùa hè 1964, đã xảy ra một vụ khá nghiêm trọng. Trong quá trình một cuộc điều tra của Quốc hội về các khoản miễn thuế dành cho các công ty tư nhân do Wright  Patman chỉ đạo, người ta đã phát hiện 8 công ty là vỏ bọc của CIA. Tất cả chỉ là một địa chỉ hộp thư do CIA ngụy tạo để nhận tiền một cách hợp pháp. Còn tiền gửi trên danh nghĩa là tiền của các quĩ ủng hộ cho một quĩ có các hoạt động hoàn toàn hợp pháp. Đó là khoản tiền được miễn thuế vì phục vụ cho các mục tiêu phi lợi nhuận theo điều luật 990-A. Quá trình gửi và nhận tiền đã được CIA chuẩn bị kỹ lưỡng, bảo đảm bí mật và hợp pháp.

Vào tháng 4/1967 tạp chí Ramparts đã công bố phóng sự điều tra về các hoạt động bí mật của CIA trong đó có đề cập đến các tổ chức vỏ bọc của CIA. Tiếp đó nhiều tờ báo khác cũng viết bài nói về các tổ chức vỏ bọc của CIA ở nước ngoài trong đó có tổ chức Đại hội và các tạp chí do Đại hội quản lý. Trước khi có tố cáo của Ramparts, Thượng nghị sĩ Mansfield đã yêu cầu quốc hội mở cuộc điều tra về các khoản tài trợ bí mật của CIA.

Tổng thống Lyndon Johnson đã cho thành lập một ủy ban điều tra gồm 3 thành viên. Ủy ban Katzenbach trong báo cáo ngày 29/3/1967 đã khẳng định CIA từng bí mật cung cấp tiền, trực tiếp hoặc gián tiếp, cho nhiều tổ chức văn hóa nhà nước hoặc tư nhân với mục đích phi lợi nhuận. Trong bản báo cáo ghi ngày 31/12/1967, Ủy ban này đã yêu cầu CIA chấm dứt mọi hình thức tài trợ bí mật cho các tổ chức văn hóa nước ngoài (trong đó có nhắc tới Đài châu Âu tự do), chậm nhất là sau hai năm. Nhưng trong thực tế CIA chưa bao giờ ngừng việc tài trợ bí mật cho các tổ chức văn hóa nước ngoài

Nguyễn Đình
.
.
.