Người đặc biệt của nghề luyện sái vàng giữa phố

Thứ Hai, 12/05/2014, 18:14

Có một người đàn ông là trụ cột gia đình, đã hơn 20 năm qua chỉ làm một nghề duy nhất để nuôi sống vợ con vô cùng đặc biệt. Ấy là nghề luyện sái vàng. Đó không phải là chuyện hy hữu, khi luyện ra vàng từ đất đá cũng là một nghề đổ mồ hôi, sôi nước mắt và chẳng phải là ai cũng có thể làm được. Từ một cơ duyên như định mệnh cuộc đời, sau không biết bao lần thất bại, chủ nhân của cái nghề đặc biệt này vẫn bám trụ với nghề. 

Lấy vàng từ đất

Tưởng chừng chuyện luyện vàng từ đất đá ấy chỉ là câu chuyện của những cuộc trà dư tửu hậu lúc rảnh rỗi, thế nhưng câu chuyện “nằm mơ giữa ban ngày” ấy đang có thật ở thị trấn Vạn Giã (huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa) của một người có “thâm niên” hơn 20 năm luyện ra vàng từ đất. phải dò hỏi mãi, người dân nơi đây mới chỉ cho chúng tôi đến ngôi nhà, cũng là xưởng chế tác của gia đình ông Cao Thanh Tùng (trú thị trấn Vạn Giã). Người dân ở Vạn Giã vẫn thường đồn nhau rằng: “Mỗi lần ông Tùng chở đá, đất về, thế nào cũng luyện ra vàng!”. Lúc chúng tôi đến, gia đình ông Cao Thanh Tùng đang hì hục luyện vàng. Rất bất ngờ nhưng cũng cởi mở, ông không ngần ngại mời chúng tôi vào nhà để kể lại chuyện nghề của mình.

Cơ duyên đến với nghề của ông cũng rất đặc biệt, bởi đó gần như là vốn trời cho ông. Còn ông thì vẫn cười và bảo rằng vì đói nên đầu gối phải bò. Làm người trụ cột trong gia đình mà để vợ con nheo nhóc thì sao đặng! Thế nên ông mới làm. Cách đây hơn 30 năm, lúc ấy ông mới lập gia đình ông. Hai vợ chồng tay trắng làm lụng kiếm ăn, nhưng sấp ngửa tối ngày mà vẫn lo đói. Ở mảnh đất Ninh Thọ (Ninh Hòa) ngày ấy cuộc sống rất khó khăn. Để vợ con bớt nheo nhóc, ông theo những người trong làng đi đãi vàng thuê ở khắp nơi như Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên... thế nhưng ngày ấy các bãi vàng toàn ở những nơi “thâm sơn, cùng cốc”, cuộc sống phức tạp, hỗn độn, một đi là khó trở về.

Mấy năm trời còng lưng trên các bãi vàng, ông làm mãi mà cũng chẳng đủ ăn chứ chưa nói gì đến việc gửi tiền về quê nuôi vợ con trong khi bệnh tật rình rập, tính mạng luôn bị đe dọa. Nghĩ mãi, thế rồi ông đành từ bỏ nghề đào vàng khi cảnh nhà vẫn đói để chuyển qua nghề khác. Nhưng nghề khác lúc ấy của ông vẫn liên quan đến vàng, khi ông thôi không chui hầm nữa, mà chuyển sang việc lau chùi sàn nhà, cống thải, vật dụng luyện vàng ở các tiệm kim hoàn rồi mang về luyện lại. Thế nhưng việc này cũng đòi hỏi chi phí cao, công xá lớn, rất vất vả mới có được vàng. Mà trong thời điểm ấy, những tiệm vàng còn khá khiêm tốn với các loại vàng như thế.

Nghĩ mãi không biết cách nào kiếm sống được. Ông về nhà, hai vợ chồng bàn bạc vay mượn khắp nơi được hơn 20 ngàn đồng (giá trị lúc ấy tương đương với một chỉ vàng) để đi buôn heo, kết hợp nuôi thêm gà vịt trong nhà. Cuộc sống lúc ấy cũng chỉ gọi là tạm ổn. Nhưng rồi số trời run rủi đã mang đến cho ông một cơ may ngàn năm có một. Ông cười kể lại, trong một lần tình cờ trên chuyến xe khách ra Phú Yên bắt heo, người khách ngồi cùng ghế với ông bỗng dưng mặt mày tím tái, ngồi không vững nên đổ vật xuống. Lúc ấy hành khách trên xe tá hỏa tưởng có người chết nên hoảng hồn nhảy hết xuống xe. Chỉ có mỗi mình ông cùng người đàn ông đó trên xe. Nhìn sắc diện, ông Tùng biết người đó bị trúng gió độc. Ông liền dùng dầu đánh gió giúp. Chừng 5 phút sau, người khách tỉnh lại. Cảm động trước ơn cứu mạng của ông Tùng, người đàn ông đó đã đưa ông Tùng về nhà, rồi chỉ bày cặn kẽ cho ông cách luyện vàng từ đất, cát thải ở mỏ vàng bằng phương pháp thủy luyện kết hợp hỏa luyện. Phương cách ấy không quá vất vả, lại đưa ra được vàng có ít tạp chất hơn.

Ông Tùng cho biết: “Lúc ấy tôi mừng hơn bắt được vàng vì người ta đâu dễ gì lộ bí quyết nhà nghề cho mình được. Tôi được ông ấy đưa về nhà chỉ cho từng tý một. Sau đó nhiều lần ông ấy còn hỏi thăm tôi xem công việc ấy như thế nào nữa. Phải nói tôi có được cái nghề này là nhờ ông ấy!” Nghe ông kể về cơ duyên đến với nghề của mình, chúng tôi không khỏi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Bởi sự hy hữu và lạ lùng của cuộc đời đều vận vào ông cả.

Nửa đời với nghề ”trời cho”

Tính ra, ông Tùng đã theo nghề luyện sái vàng được hơn 20 năm. Ông bảo trước đây người ta thường bỏ sái vàng đi cho đỡ chật mỏ. Nhưng bây giờ nguồn vàng đang dần cạn kiệt nên sái vàng đã được các chủ mỏ tận dụng để bán lại, thậm chí, có doanh nghiệp còn đấu thầu để mang về luyện lại. Phía sau nhà ông, cũng gần như là một xưởng chế tác, xưởng luyện kim ấy có hàng chục khối đất, đá được thu gom từ các mỏ vàng ở Quảng Nam, ở Bình Định, Phú Yên, Kon Tum đưa về nằm chờ đến ngày được luyện. Ông Tùng bật mí rằng những khối đất đá ấy sẽ được cho vào máy xay nhuyễn, đưa qua các bể lắng ngâm nước.

Hỏi bí quyết luyện vàng của mình, ông Tùng ngập ngừng một chút rồi chỉ vào các bể ngâm, ông Tùng cho biết: “Từ đất đá như thế này, để thành vàng cũng không dễ dàng gì. Mỗi mẻ sái như thế này phải xử lý khoảng 12 - 15 ngày với nhiều công đoạn. Nghề này không khó, nhưng phải có kiến thức Hóa, Lý cơ bản và một số máy móc, dụng cụ chuyên biệt mới làm được! Sau khi mua về, sái vàng được xay, trộn đều với các hóa chất, vôi, sô-đa, xút... rồi cho vào các hồ ngâm được xây bằng bể xi măng. Sau đó tháo hết nước, cho kết tủa bằng kẽm. Làm nhiều lần như vậy sẽ thu được một hỗn hợp gồm các chất như: kẽm, barít sắt... với tỷ lệ vàng khoảng 50 - 80%. Sau đó, tiến hành phân kim bằng axít, hỏa luyện để tách ra vàng. Sau nửa tháng, kết quả thường được 1 - 2 chỉ vàng “96” như thế. Còn nếu muốn có được vàng “bốn con chín” thì phải mất thêm một công đoạn rắc rối nữa. Cái này là bí mật!”.

Theo ông Tùng, nếu có kiến thức về Lý, Hóa và biết cách làm thì có thể luyện được sái vàng. Luyện sái vàng quan trọng nhất là biết chọn sái thô. Bởi qua sái vàng biết tỷ lệ vàng là bao nhiêu. Để không lỗ, ông thường lấy chừng 15kg sái về làm thử, sau đó tính tỷ lệ. Tuy vậy, vẫn có lần ông bị lỗ nặng do bị lừa mua phải “sái nước 3, nước 4”, tức là sái đã luyện qua mấy lần. Ông Tùng cũng thừa nhận, luyện thế nào cũng ra vàng, nhưng tính toán không kỹ là lỗ vốn, lỗ công, bởi đây là nghề “bòn tro đãi sạn” làm lời. Trung bình mỗi khối đất đá phải luyện được hơn 5 phân vàng, nếu ít hơn là lỗ. Trong đời ông, lần luyện may mắn nhất là thu được 1,5 chỉ vàng trong một khối sái, còn thường thì được 1 chỉ, thế là đã hạnh phúc lắm rồi. Mỗi tháng, ông làm chừng 2 hồ luyện. Mỗi năm, ông cũng thu được khoảng 3 - 4 cây vàng. Thế nhưng trừ chi phí, còn lại phần lời chỉ đủ ăn.

Gần đây, khi vàng liên tục tăng giá, nhiều người quay lại luyện sái vàng khiến sái vàng cũng tăng giá theo. Nghề luyện sái vàng không ưu đãi người. Việc theo nghề vốn đã vất vả, còn ảnh hưởng đến sức khỏe. Các hóa chất dùng trong luyện vàng rất độc. Mỗi lần phân kim, ông không cho con cái đến gần, chỉ một mình làm. Ngoài đeo khẩu trang, ông còn dùng nước cam để trung hòa độ kiềm trong người nếu không may hít phải nhiều khí độc. Làm xong, ông dùng thuốc tím để xử lý nước thải.

Tuy nhiên, ngay cả với ông dù đã có vốn kiến thức về đào đãi vàng nhiều năm, nhưng mấy mẻ sái vàng đầu xin từ mỏ vàng Hòn Chùa - Vạn Ninh về ông làm thử nhưng thất bại. Bà Dương Hoàng Thu, vợ ông thì chỉ cười: “Mỗi lần chồng tôi thất bại đều dựa vào trang trại chăn nuôi của gia đình để làm tiếp. Biết theo nghề là phiêu lưu, nhưng ông đã lỡ đam mê nên đành phải gắng. Mỗi lần thất bại, ông lại cắm cúi đi mua sách về đọc, ghi chép rồi thức cả đêm tính toán mới thành công đấy!”. Phải đến nhiều lần sau, khi đã đúc rút được khá nhiều “kinh nghiệm xương máu” thì ông Tùng mới thành công và thu được gần 7 phân vàng. Mẻ sái vàng đầu tiên thành công, ông mừng rỡ vội vã thông báo cho “ông thầy” của mình biết. Sau đó mua cả một mâm lễ để lạy tạ trời đất và liên hoan cả gia đình.

Trước đây, khi giao thông chưa thuận lợi, mỗi lần vào mỏ vàng mua sái, ông đều phải đi cùng 2 - 3 người hoặc đi với các đoàn khai thác vàng để tránh bị cướp. Ông Tùng chia sẻ: “Nhiều người theo nghiệp này đã sa vào cờ bạc, rượu chè, mại dâm và ma túy. Còn với tôi thì nghề luyện vàng này như một thứ đam mê theo suốt đời. Sung sướng nhất là khi chinh phục được một mẻ quặng khó, lẫn nhiều tạp chất, phải dùng nhiều phương pháp khác nhau mới tinh lọc được vàng. Lần tôi trúng nhiều nhất là năm 1992 với 12 cây vàng, đủ để mua xe, sửa nhà…”.

Một mẻ sái sắp được luyện thành.

Hơn 20 năm gắn bó với nghề, ông nghiệm ra một điều rằng cái nghề này không bạc với những người sống hiền lương và cần mẫn. Ông tâm sự: “Tôi làm nghề này, cơm cũ đổi cơm mới, nuôi con cái học hành để sau này chúng không làm nghề vất vả như bố. Con cái mà làm nghề này thì thế nào chẳng vào các mỏ. Ở đó, tệ nạn nhiều lắm. Ba nó làm vàng cả đời mà cứ “lên voi, xuống chó”, có khá được đâu. Đời chúng nó, nhất định phải học để khá hơn mình!”. Cũng vì thế, ông nhất quyết không cho con nối nghiệp mình. Hiện nay, hai con đầu của ông là học viên Trường Sỹ quan Thông tin, hai người con sau cũng học rất tốt. Đó là hạnh phúc nhất của đời ông. Một điều đặc biệt, ông không giữ nghề cho riêng mình mà cũng đã truyền dạy nghề luyện sái vàng cho nhiều người khắp trong Nam, ngoài Bắc. Tất nhiên, đó phải là những người có cái tâm, nếu không sẽ không thành.

Máu và mồ hôi trên con đường làm giàu nhờ đất đá

Không lên rừng xuống bể, cũng không phải đào hầm lò, sàng đãi ở những nơi thâm sơn cùng cốc, mà ở ngay phố thị, ngày ngày ông Cao Thanh Tùng vẫn làm cái việc ít người dám làm ấy. Trò chuyện với chúng tôi, ông Tùng không ngần ngại kể về cái nghiệp bất ngờ và cả những sự nghiệt ngã, những thăng trầm trong hơn 20 năm làm nghề của mình. Ông Tùng thật thà chia sẻ rằng, bình thường nếu có kiến thức về Lý, Hóa và biết cách làm thì có thể luyện được sái vàng. Luyện sái vàng quan trọng nhất là biết chọn sái thô. Bởi qua sái vàng biết tỷ lệ vàng là bao nhiêu. Tuy nhiên, ngay cả với ông dù đã có vốn kiến thức về đào đãi vàng nhiều năm, nhưng mấy mẻ sái vàng đầu xin từ mỏ vàng Hòn Chùa - Vạn Ninh về ông làm thử nhưng thất bại. Lần ấy ông nhận số đất trên về để luyện, thấy ông thật thà khác hẳn với đám cò luyện vàng nên người chủ cũng thương tình bảo ông cứ mang đất về luyện, nếu có lời thôi, còn nếu lỗ, cứ đến đấy người ta sẽ “thối” lại tiền thua lỗ. Ông luyện vàng từ đất ấy, nhưng vì kỹ năng còn yếu nên không thành công, vàng đâu chẳng thấy, chỉ nhận được những thứ bỏ đi.

Ông nhớ lại, hồi ấy ông mới vào nghề, vẫn còn “ngu ngơ” lắm. Thấy có người đánh tiếng bán đất có vàng, ông lặn lội mò tới thấy mấy chục bao tải đất đã được người ta sắp sẵn. Sau khi thử qua thấy lượng vàng ưng ý, ông mừng thầm trong lòng vì số tiền bỏ ra chỉ bằng một phần ba so với số vàng luyện thành từ lượng đất này. Thế nhưng ông không ngờ mình bị lừa, bởi số đất mà người ta mang cho ông thử là đất chưa luyện nên vàng còn lẫn trong đất đá nhiều, còn số đất đã đóng sẵn vào bao tải kia là đất đã luyện, là đất thải, bỏ. Mang số đất ấy về nhà, ông hì hụi thủy luyện, hỏa luyện nhưng cuối cùng cũng chỉ thu được hơn 8 chỉ vàng, chỉ bằng một phần tư so với tính toán của ông. Ông Tùng ngượng nghịu kể lại: “Lần ấy tưởng được mối hời. Mang đất đá về rồi khấp khởi mừng, hì hục sàng, luyện. Nhưng “cục vàng” thu được lần đó nặng chưa đầy... một cây. Hai vợ chồng chỉ biết mếu máo nhìn nhau vì lỗ chổng vó!”. Lần ấy ông lỗ nặng, nhưng cắn răng chịu không dám nói với ai vì sự dại dột của mình. Từ kinh nghiệm xương máu đó, mỗi lần đi mua đất là ông phải xem xét thật kỹ càng. 

Trước đây, khi giao thông chưa thuận lợi, mỗi lần vào mỏ vàng mua sái, ông đều phải đi cùng 2 - 3 người hoặc đi với các đoàn khai thác vàng để tránh bị cướp. Bởi trước đó có một lần ông đi một mình mua đất đá từ Kon Tum về, những kẻ xấu theo dõi ông đi từ các bãi vàng ra, tưởng ông mang theo vàng giấu trong đất đá như thế nên đã chặn đường, cướp sạch số đất trên.

Nghề cho người thiện lương

Người ta có thể tìm và luyện vàng từ những khối đất sái. Điều này là sự thật bởi những thợ luyện vàng cao thủ có đôi mắt nhìn ra vàng, có đôi tay luyện được vàng từ những gì tưởng chừng là “cát bụi” nhất. Nhưng cái nghề tưởng chừng sung túc, phú quý vẹn toàn ấy cũng rất bạc và vô cùng độc hại. Những thăng trầm với nghề hơn 20 năm qua ông đã nhiều lần nếm trải, nhưng may là ông vẫn giữ được lòng mình.

Giọng buồn buồn, ông kể về một trường hợp sau khi ông truyền bí kíp luyện vàng cho một người bạn ở Nghệ An: “Nghề luyện vàng này có người trúng đậm, nhưng số người “thảm hại” cũng không ít. Cách đây gần mười năm, có một người được tôi truyền lại cách luyện vàng đặc biệt này, ông ta về nghe bảo làm ăn cũng khấm khá lắm. Vì ở đất vàng Nghệ An còn ít người biết thủ thuật này. Có lần ông ta luyện được mấy cây vàng, nhưng chỉ sau nửa năm, người ta thấy ông tay trắng trở về trắng tay. Bởi đau đớn thay, khi có tiền, vàng thì ông trượt chân vào con đường cờ bạc, từ đánh đề đến chơi vé số. Rồi ông có bồ bịch, vợ hai. Người vợ cả của ông bèn chia tay, chia gia sản. Ông trở nên khánh kiệt. Vận đen còn đeo đuổi ông đến cuối đời bởi lúc này mắt ông đã mờ, tay chân run rẩy không còn làm ăn được gì nữa, đây là điều tối kỵ nhất với người luyện vàng!”.

Ngay cả với ông Tùng, cũng không ít lần thất bại suýt khuynh gia bại sản. Sau lần bị lỗ tới gần như phải trắng tay, vợ ông lại phải gom góp toàn bộ số vốn có được từ việc buôn bán của bà đưa cho ông. Bà Dương Hoài Thu, vợ ông cười xuề xòa: “Có nhiều lần cả tháng trời hai vợ chồng phải ăn cơm độn để giành tiền gom góp cho ông ấy mua lại sái để làm lại từ đầu. Tôi thì sức khỏe yếu, chỉ ở nhà buôn bán lặt vặt, chuyện ông ấy làm thì ông ấy hay chứ tôi không làm cùng ông ấy. Nhưng mỗi lần thấy ông ấy thất bại tôi cũng buồn. Rồi ông ấy lại mày mò mua sách vở về nghiên cứu, lại tính toán, lại mua sái về làm lại. Thành công thì cũng có, mà những lần thất bại thì không phải là ít!”.

Sau nhiều thất bại, ông cũng thành công. Có tiền để trả nợ, có tiền nuôi con ăn học, lại để giành được tiền mua một mảnh rẫy trồng mỳ làm trang trại cách nhà không xa. Để tránh cho gia đình phải hứng chịu những độc hại từ công việc của mình, ông chuyển những công đoạn nặng nhọc nhất lên rẫy, xây ở đó một hồ luyện và suốt ngày hì hụi ở đó. Khi luyện sắp thành, gần tới công đoạn phân kim lấy được vàng thì ông đưa về nhà làm. Để tránh bị cướp. Ông bảo để luyện ra được vàng, người làm nghề này phải đánh đổi rất nhiều, từ tuổi thanh xuân, sức khỏe, thậm chí là cả tính mạng. Ở cái tuổi sức khỏe bắt đầu yếu, tôi hỏi ông nghĩ gì về nghề của mình. Ông Tùng cười: “Tôi đã thử nghiệm trong điều kiện rất hạn chế. Chủ yếu theo phương pháp thu hồi vàng truyền thống. Tuy nhiên cũng không thể nói hết được. Chỉ có một điều chắc chắn là tôi sẽ tiếp tục chứ không dừng lại. Mình không có đủ điều kiện công nghệ nhưng lại có thừa đam mê tìm kiếm!”, ông Tùng khẳng định.

Hơn 20 năm làm cái nghề vô cùng đặc biệt này, nhiều lúc ông tưởng mình không trụ nổi với nghề, nhưng may mắn cho ông là có được người vợ hiểu chồng, những đứa con ngoan ngoãn biết nghe lời và học hành để có tương lai tươi sáng. Bây giờ, tuy ông ít làm hơn trước, nhưng mỗi tháng hồ luyện của ông cũng đỏ lửa một lần, vì thời điểm này nguồn đất sái vàng hạn chế hơn trước, và cũng bắt đầu có nhiều người tập tành làm nghề này. Ngoài thời gian luyện vàng, ông lại lên rẫy để lao động như một lão nông tri điền thực thụ. Ông vẫn giữ được gia đình mình hạnh phúc, rất nhiều năm được công nhận gia đình văn hóa. Sống ở thị trấn này, ông rất được lòng mọi người. Mỗi lần luyện vàng xong, khối lượng đất đá kia ông lại cho người khác để đổ đất làm nhà chứ không bán. Ông cũng là một tổ trưởng tổ dân phố được nhiều người nể trọng.

Ngồi trong ngôi nhà được xây nên từ những khó nhọc trong nghề luyện sái vàng của mình, ông vẫn nhớ như in những tháng ngày cam go cực khổ, cả những lần thành công và thất bại của mình. Nhưng hơn lúc nào hết, ông vẫn tâm niệm rằng nghề này không bạc với người có tấm lòng. Vấn đề là phải biết giữ mình, nếu không rất dễ sa ngã

Thanh Thảo
.
.
.