Bí mật đen tối của Guantánamo: Chuyện của Salahi

Thứ Hai, 03/06/2019, 16:14
Ban lãnh đạo nhà tù quân đội Mỹ đã coi Mohamedou Salahi là tù nhân có giá trị cao nhất. Nhưng cai ngục trông giữ ông ta nghi ngờ điều đó.


Một ngày nọ, Salahi bắt đầu yêu cầu giấy bút từ những người cai ngục. Theo phán quyết gần đây của tòa án, những người bị giam giữ Guantánamo có quyền có luật sư. Trong vài tháng tiếp theo, Salahi đã viết hồi ký về việc bị giam giữ và gửi cho luật sư của ông ở Mỹ.

Không có lính canh hay thẩm vấn viên nào được phép đọc những ghi chép của Salahi cho luật sư. Lần đầu tiên, ông được tự do mô tả kinh nghiệm của mình mà không sợ bị trả thù.

Những suy nghĩ đầu đời

Mohamedou Ould Salahi sinh năm 1970, là con thứ 9 của một người chăn lạc đà ở Mauritania, một quốc gia ở Tây Phi. Ông lớn lên khi đất nước có nhiều cuộc đảo chính quân sự, 1978, 1979, 1984. Sự thiếu tiến bộ, phát triển và tự do trong xã hội Mauritania đã khiến Salahi căm giận chế độ chuyên chế và tham nhũng, và mong muốn đấu tranh cho một điều gì đó lớn hơn.

Những năm 1980, Salahi và một người anh em họ là Mahfouz Ould al-Walid, đã dành buổi tối của họ tại một quán cà phê địa phương, nơi chủ nhân cho xem các video về cuộc đấu tranh của người Palestine và thánh chiến ở Afghanistan. 

Năm 1988, Osama bin Laden tuyên bố thành lập Al-Qaeda. Walid lúc đó 13 tuổi, bắt đầu đọc những cuốn sách nhỏ của Bin Laden. Anh ta và Salahi đã say mê với câu chuyện của Al-Qaeda, rằng một nhóm ragtag của mujahideen, mang theo vũ khí hạng nhẹ và trốn trong các hang động, đang đảm nhận một nhiệm vụ siêu cường để bảo vệ tất cả người Hồi giáo.

Năm 1988, Salahi tốt nghiệp trung học và giành được học bổng học ngành kỹ thuật tại Duisburg, Đức. Salahi là người đầu tiên trong gia đình theo học đại học. Nhưng lời kêu gọi thánh chiến đã làm gián đoạn việc học. Đó là năm 1990, Liên Xô đã rút khỏi Afghanistan, nhưng Al-Qaeda vẫn chiến đấu chống lại chính quyền Afghanistan mà Liên Xô dựng nên. Tháng 12-1990, ngay trước sinh nhật thứ 20 của mình, Salahi đã lên chuyến bay tới Pakistan để sang Afghanistan, và mặc dù không bao giờ gặp Bin Laden.

Vào mùa xuân năm 1992, Salahi trở lại Afghanistan. Vì Salahi không có kinh nghiệm về vũ khí nên được Al-Qaeda gửi đến trại huấn luyện Al Farouq, gần Khost, học cách sử dụng súng trường Kalashnikov và súng phóng lựu. Liên Xô tan rã, cuộc nội chiến Afghanistan bước vào một giai đoạn mới, với các nhóm Hồi giáo đối thủ ganh đua để kiểm soát, và Salahi không muốn một phần nào trong đó. Sau 3 tháng, Salahi rời Afghanistan và trở về Duisburg, làm việc trong một cửa hàng sửa chữa máy tính và hoàn thành chương trình học.

Không còn can dự

Hai năm nữa trôi qua trước khi tên Salahi thu hút sự chú ý của Deddahi Ould Abdellahi, người đứng đầu bộ máy an ninh - tình báo Mauritania. Năm 1994, với tư cách là Giám đốc An ninh nhà nước, ông đã mở một cuộc điều tra về các chiến binh thánh chiến. 

Tại thủ đô Nouakchott, Abdellahi giam giữ những người gần gũi với Mahfouz Ould al-Walid - lúc này đã là một lãnh đạo cao cấp của Al-Qaeda với tên gọi Abu Hafs al-Mauritani, và truy tìm tên của các chiến binh thánh chiến khác. Một số người đề cập đến Salahi như một liên lạc ở Đức. 

Với sự hỗ trợ của tình báo Đức, Abdellahi bắt đầu thu thập thông tin về Salahi. Một điều không rõ ràng với Abdellahi rằng liệu Salahi có còn hoạt động trong Al-Qaeda hay không, nhưng anh ta dường như là một người mà tất cả người Hồi giáo Mauritanian biết.

Abu Hafs là cố vấn cá nhân của Bin Laden về luật Sharia. Năm 1996, khi Abu Hafs 21 tuổi, ông đã phác thảo fatwa quan trọng nhất của Bin Laden: một tài liệu 11.000 chữ tuyên bố chiến tranh chống lại Mỹ của Al-Qaeda. Ông ta viết hầu hết các bài phát biểu, bình luận tôn giáo và thông cáo báo chí của Osama. Năm 1998, Bin Laden đã ghi tên Abu Hafs vào di chúc của mình.

Sau một thời gian dài không liên lạc, Abu Hafs đã gọi Salahi từ điện thoại vệ tinh bin Laden. Hai anh em họ đã cưới một cặp chị em, và vì vậy họ giờ cũng là anh em rể. Nhưng, sau khi Salahi trở về Đức, họ hiếm khi liên lạc. 

Trong khi Abu Hafs đang giải quyết các vấn đề của Al-Qaeda, ở Đông Phi, cha ông bị bệnh, và vì vậy Abu Hafs đã yêu cầu Salahi giúp đỡ trong việc chuyển tiền để chăm sóc gia đình ở Mauritania. 

Salahi đồng ý và Abu Hafs đã chuyển khoảng 4.000 USD vào tài khoản Đức của ông. Salahi đã gởi cho những người bạn đang đi du lịch tới Nouakchott nhờ chuyển cho gia đình Abu Hafs.

Tiếp theo là một giao dịch thứ hai, diễn ra vào tháng 12-1998. Nhưng, sau khi Abu Hafs sử dụng điện thoại của Bin Laden để gọi một người anh em họ khác ở Nouakchott, cấp dưới của Abdellahi đã bắt người anh em họ đó, giam giữ và tra tấn anh ta trong 2 tháng. Vì vậy, khi Abu Hafs gọi Salahi để được hỗ trợ lần thứ ba, đầu năm 1999, Salahi đã từ chối.

Những trùng hợp chết người

Al-Qaeda vào thời điểm này đã biến thành một tổ chức khủng bố quốc tế và đang tiến hành các cuộc tấn công ở Đông Phi và Trung Đông. Mỹ đã bắn tên lửa hành trình vào các mục tiêu liên kết với Al-Qaeda ở Sudan và Afghanistan. Và, trong nỗ lực bắt giữ Abu Hafs, CIA đã đột kích vào một khách sạn ở Khartoum nhưng ông ta đã trốn thoát. 

Một đêm tháng 10-1999, một người bạn của Salahi đã yêu cầu ông tiếp đón 3 người Hồi giáo đang đi qua Duisburg. Trong bữa tối, họ cho biết đang đi về hướng đông, vì thánh chiến. Những người này ngủ trên sàn nhà của ông và rời đi Afghanistan lúc bình minh. Salahi không biết tên thật của họ và không bao giờ được nghe từ họ nữa.

Đến bây giờ, Salahi đã bị tình báo Đức giám sát. Nhưng người Đức không thấy có lý do gì để giam giữ hay thẩm vấn ông ta. 

Theo một cuộc điều tra của Der Spiegel, ông đã thuyết giảng tại các nhà thờ Hồi giáo và vẫn thường xuyên liên lạc với những chiến binh thánh chiến có tên và số điện thoại di động sẽ xuất hiện trong các cuộc điều tra ở châu Phi, châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Đông. Nhưng ông ta không coi mình là thành viên của Al-Qaeda, hay người điều phối các hoạt động củatổ chức này. 

Một ngày nọ, các sĩ quan Đức đã thẩm vấn một trong những người bạn của Salahi. Khi được hỏi liệu Salahi có liên quan đến bất kỳ hoạt động khủng bố nào không, người đó đã cười.

Nhưng Salahi muốn sống không bị giám sát, và ông ta quyết định rời khỏi đất nước. Một trong những người bạn của Salahi, hiện đang sống ở Canada, đề nghị ông ta chuyển đến Montreal. Và Salahi đã đến đó vào ngày 26-11-1999. Hosni Mohsen, đã giới thiệu ông ta với imam (thầy tế) tại nhà thờ Hồi giáo Al Sunnah. 

Nhà thờ Hồi giáo có hàng ngàn người tham dự, một vài người trong số họ thuộc nhóm thánh chiến người Algeria đã thu hút sự chú ý của các cơ quan tình báo Pháp và Canada. Một số người bạn xấu của Mohsen đã đến thăm căn hộ của Mohsen, khi ông đang tiếp Salahi. "Vì vậy, họ cho rằng tôi có liên hệ với Osama bin Laden", Salahi viết.

Một trong những chiến binh thánh chiến người Algeria là Ahmed Ressam. Một tuần sau khi Salahi bắt đầu vai trò dẫn đầu cầu nguyện tại nhà thờ Hồi giáo Al Sunnah, Ressam lái chiếc xe cho thuê lên một chiếc phà ở Mỹ ở Victoria, British Columbia. Khi chiếc thuyền đến cảng Angeles, gần Seattle, các nhân viên hải quan đã phát hiện trong xe hơn 100 pound chất nổ, cùng với 4 kíp nổ hẹn giờ. Ressam nói với các nhà điều tra rằng hắn đã lên kế hoạch kích nổ vali trong một nhà ga đông đúc tại sân bay quốc tế Los Angeles.

Sau vụ tấn công thất bại, Canada ráo riết điều tra "tế bào Montreal". Trong số các mục tiêu của cuộc điều tra là Mohsen, người bạn và chủ nhà của Salahi. Sau khi bắt giữ Mohsen, theo hồ sơ của tòa án, các nhà điều tra đã phát hiện ra rác bỏ túi, có tên Salahi và số điện thoại Ressam. 

Ngay sau đó, các nhà điều tra Canada đã hỏi Salahi về Âm mưu thiên niên kỷ. "Họ hỏi tôi có biết Ahmed Ressam không. Tôi nói ‘không", Salahi viết. Các nhà điều tra sau đó xác định rằng Ressam đã rời Montreal đến một ngôi nhà ở Vancouver vào ngày 17-11, 9 ngày trước khi Salahi đến Canada.

Ở Mauritania, người của Abdellahi đã bắt giữ vợ và anh em của Salahi, và thẩm vấn họ về Âm mưu thiên niên kỷ. Các thành viên trong gia đình rất mong muốn Salahi trở về. Ngày 21-1-2000, Salahi đã đáp chuyến bay tới Sénégal và đi đường bộ để về nhà. Tuy nhiên, trên đường về nhà ông ta đã bị bắt và bị gán tất cả các tội danh đã nói trong Kỳ 1. Ông ta cho rằng những tội danh ông ta thừa nhận đều do ép cung mà ra.

Hòn Rồng
.
.
.