Phiên tòa giải oan muộn màng nhờ cuốn sách của vị luật sư

Thứ Sáu, 06/12/2013, 11:00
Trong cuộc sống vẫn luôn có những sự nhầm lẫn, có những nhầm lẫn mang lại thú vị, nhưng lại cũng có những nhầm lẫn đau lòng. Đó là những nhầm lẫn trong pháp luật. Chỉ một chút sơ xuất là có thể ảnh hưởng tới cuộc đời một con người khi những người cầm cân nảy mực đưa ra những quyết định không chính xác.

Từ sự bế tắc trong việc tìm hung thủ

Ngày 30/12/1921, cô bé Nell Alma Tirtschke, 12 tuổi được người cô nhờ đi đến cửa hàng bán thịt trên phố  Swanston, Melbourne,Úc để lấy thịt. Thời gian đi từ nhà tới phố chỉ khoảng 15 phút nhưng cô bé đã không bao giờ trở về nhà cùng thịt cho bữa tối.

Sáng hôm sau, người ta tìm thấy thi thể trần truồng của cô bé ở trong một con hẻm đi tắt tới phố Swanston, gần cửa hàng bán thịt mà cô bé sẽ phải tới. Alma đã bị hãm hiếp và siết cổ tới chết.

Ở thời điểm đó có rất ít những vụ án kiểu như vậy nên cái chết của cô bé Alma thực sự thu hút được sự chú ý của dư luận cũng như của các nhà chức trách. Họ gọi đó là hành động nhẫn tâm và vô lương của hung thủ. Báo chí Melbourne đã cảnh báo người dân nên cẩn trọng và quan tâm đến con cái của mình hơn bởi tên ác thú có thể sẽ lại tiếp tục hành động.

Một phần thưởng trị giá 1.250 bảng đã được treo để trao cho bất cứ ai có thông tin về kẻ giết người. Đó là một phần thưởng cao nhất ở Úc lúc bấy giờ. Nhưng thời gian trôi qua mà không có dấu vết nào của kẻ giết người, cảnh sát Melbourne đã bị chỉ trích và chịu áp lực từ phía dư luận để tìm cho ra hung thủ.

Tất cả những người đàn ông có biểu hiện không tốt hoặc từng có tiền án, tiền sự đều được triệu tập để xét hỏi và trong những người đàn ông đó nổi lên Colin Campbell Ross mà cảnh sát cho rằng rất đáng ngờ. Trong lời khai, Colin đã nói có nhìn thấy một em bé như mô tả ở trước cửa quán rượu của mình vào ngày xảy ra vụ án.

Colin Campbell Ross là con trai của một góa phụ trẻ cùng với 4 anh chị em khác sống một cuộc sống khó khăn. Tuổi thơ Colin cùng các anh chị em phải làm đủ nghề để kiếm sống. Chỉ đến khi mẹ cậu kiếm được việc làm quản lý cho một khách sạn lớn thì cuộc sống mới bớt khó khăn. Tại khách sạn, Colin bắt đầu mối quan hệ với Lily Mae Brown - một nhân viên của mẹ mình.

Ngày 5/3/1920, Colin đã ngỏ lời cầu hôn với Lily nhưng cô gái từ chối vì cho rằng mối quan hệ của họ chưa đi xa đến thế. Colin sau đó đã tự chế một khẩu súng và đi tìm Lily, yêu cầu cô phải gặp mình. Lily đã nhờ đến cảnh sát và Colin bị bắt giam 14 ngày vì tội tàng trữ vũ khí trái phép.

Sau khi trở về, Colin đã cùng anh trai mình mở một quán rượu ở Melbourne. Ban đầu, quán này chỉ có những khách hàng lịch sự, thích sự yên tĩnh, nhưng sau đó Colin đã mở cửa tiếp đón tất cả các thành phần khác nhau và quán trở nên lộn xộn với những tên nghiện rượu và cả tội phạm.

Ngày 13/10/1921 đã xảy ra một vụ trộm của khách hàng trong quán rượu. Tên trộm bị bắt và hắn khai kẻ chủ mưu là Colin. Hắn và Colin sẽ chia nhau số tiền lấy được từ khách hàng. Nhưng sau khi mẹ Colin đến gặp hắn thì hắn lại nhận chỉ có một mình thực hiện kế hoạch.

Với những vết đen trong lí lịch cùng lời khai của vài nhân chứng nói rằng nhìn thấy cô bé Lily trước cửa quán rượu gần nơi cô bé bị giết, cảnh sát đã tin rằng Colin Campbell Ross là thủ phạm của vụ án dù Colin có bằng chứng ngoại phạm rất rõ ràng là đang phục vụ khách trong thời gian vụ án xảy ra.

Nỗi oan gần một thế kỷ

Không biết liệu có phải vì áp lực từ dư luận hay sự tắc trách của những cảnh sát điều tra mà chỉ với những thông tin ít ỏi, thậm chí không có gì chứng minh chắc chắn Colin có liên quan đến vụ án, nhưng những cảnh sát ở Melboume đã vội vã kết luận Colin Campbell Ross là thủ phạm trong vụ án mạng làm trấn động nước Úc.

Ngày 12/1/1922, Colin bị bắt giữ và ngày 20/2 năm đó phiên xét xử diễn ra, tại phiên tòa, một loạt những nhân chứng được phía cảnh sát đưa ra để chứng minh tội ác của Colin. Đó là John Harding, một người từng có tiền án về tội khai man và đang bị giam giữ trong tù thời điểm đó nói rằng, Colin đã thú nhận với anh ta khi ở cùng phòng giam.

Nhân chứng thứ hai là Julia Gibson, một người hành nghề thầy bói cũng nói rằng, Colin đã thừa nhận giết người và nhờ bà ta xem giúp có cách nào thoát tội. Ngoài ra, một bằng chứng quan trọng nhất đó là một vài sợi tóc mà cảnh sát thu được từ tay của nạn nhân có lẽ là do quá trình chống cự của cô bé khi bị tấn công. Các chuyên gia phân tích thời đó đã so sánh những sợi tóc đó cùng với mẫu tóc của Colin dưới kính hiển vi và kết luận chúng là của một người.

Cô bé Nell Alma Tirtschke và Colin Campbell Ross.

Mặc dù những chứng cớ chống lại Colin có vẻ rất rõ ràng nhưng Colin luôn tỏ ra bình tĩnh và nói với mọi người rằng mình vô tội nên không có gì phải sợ. Cả người thân lẫn luật sư biện hộ của Colin, Thomas Brennan tin tưởng anh và họ đều nhìn thấy những mâu thuẫn trong chứng cứ vạch tội Colin nhưng lại không thể làm gì hơn.

Cuối cùng thẩm phán ra phán quyết kết án tử hình Colin Campbell Ross với tội danh xâm hại trẻ em và giết người tàn bạo. Không chấp nhận bản án, luật sư Thomas Brennan đã đệ trình đơn khiếu nại lên cấp cao hơn nhưng đã bị từ chối, bởi họ cho rằng chứng cứ phạm tội quá rõ ràng.

Ngày 22/4/1922, Colin bị thi hành án bằng cách treo cổ, lời cuối cùng được nói, Colin vẫn khẳng định mình vô tội: “Tôi xin thề với Chúa toàn năng tôi là người vô tội. Tôi không hề biết đến cô bé và tôi cũng chưa bao giờ thú nhận với ai bởi tôi không gây ra tội ác đó. Tôi cầu xin Chúa tha thứ cho những người đã lấy đi cuộc sống của tôi và xin Ngài hãy phù hộ cho mẹ già, con cái và gia đình tôi. Tôi tin, một ngày nào đó tôi sẽ được chứng minh vô tội…”

Quá đau buồn và thất vọng khi không thể giúp thân chủ vô tội của mình thoát khỏi cái chết, Thomas Brennan đã quyết định từ bỏ nghề luật sư. Thời gian rảnh rỗi, Thomas đã viết một cuốn sách “The Gun Alley Tragedy”, trong đó viết về số phận của Colin và cái chết cho tội ác mà Colin không hề thực hiện. Cuốn sách này đã thu hút được sự chú ý của nhiều người nhưng không đủ để chính quyền xem xét một phiên xét xử lại.

Đến tận năm 1993, Kevin Morgan, một giáo viên nghỉ hưu đã bị ấn tượng mạnh khi đọc cuốn sách. Ông bắt đầu nghiên cứu các tài liệu xung quanh sự kiện cái chết của cô bé Alma và việc điều tra thi hành án.

 Trong quá trình điều tra Kevin gặp được người tài xế taxi Joseph Graham cho biết, anh ta nghe thấy tiếng la hét từ phía một tòa nhà ở phố Collins vào khoảng 3h chiều ngày 30/12/1921, mà trong thời điểm đó, nhiều nhân chứng công nhận Colin đang phục vụ khách trong quán rượu. Joseph Graham nói rằng, mình cũng đã nói điều này với cảnh sát nhưng họ không chú ý và không gọi anh ta để làm chứng.

Không chỉ có vậy, hai nhân chứng trong phiên xét xử là John Harding đã được giảm án ngay sau khi làm chứng Colin thú nhận tội, còn Julia Gibson đã nhận được khoản tiền mà cảnh sát treo thưởng. 

Hai năm sau khi nghiên cứu vụ án, Kevin tìm thấy trong phòng lưu trữ hồ sơ truy tố mẫu tóc mà cảnh sát lấy được từ trong tay nạn nhân khi vật lộn với hung thủ và mẫu tóc của Colin đã bị thất lạc. Với chứng cứ quan trọng này, Kevin lại mất một thời gian dài đấu tranh để đưa mẫu tóc đó đi xét nghiệm AND. Năm 1998, kết quả cuối cùng viện pháp y của cảnh sát liên bang Úc đã cho thấy, hai mẫu tóc không trùng nhau nghĩa là tóc trong tay nạn nhân không phải tóc của Colin như kết luận năm xưa.

Ngày 4/10/2005, gia đình Colin đã đệ trình đơn kiến nghị lên tòa án tối cao với những bằng chứng rõ ràng chứng minh sự vô tội của Colin như khi ông còn sống vẫn khẳng định. Ngày 27/8/2008, lần đầu tiên trong lịch sử pháp lý bang Victoria, một phiên tòa danh dự được mở ra, trong đó mọi người tập trung để nghe thẩm phán tuyên bố Colin Campbell Ross vô tội và mọi người cúi đầu tưởng nhớ đến ông với lòng thương tiếc vô vàn

Ngọc Yến
.
.
.