“Quái vật tàng hình” chưa phải là mạnh nhất?

Thứ Ba, 07/05/2013, 13:33

“Máy bay tàng hình là một loại máy bay áp dụng công nghệ tàng hình để chống lại việc bị phát hiện từ ra đa. Đặc biệt khi công nghệ này được áp dụng vào những chiếc máy bay chiến đấu, nó trở thành điều mà quân đội bất cứ nước nào cũng phải e dè...”.

Máy bay tàng hình B-2

B-2 Spirit là một trong những loại vũ khí tối tân mà Mỹ đem tới biểu dương lực lượng trước Triều Tiên trong thời gian căng thẳng đang leo thang gần đây. Đây cũng là loại máy bay khiến Triều Tiên phải “e dè” nhất với sức mạnh của nó. B-2 Spirit là loại máy bay ném bom chiến lược do Tập đoàn Northrop Grumman phát triển từ những năm 1980. Nó có thể thực hiện oanh tạc trên không với cả loại bom thông thường và bom hạt nhân. B-2 không có khả năng mang nhiều bom hay có tốc độ siêu thanh như một số máy bay chiến đấu khác. Nhưng nó có thế mạnh đáng sợ đó là khả năng tàng hình, có thể thâm nhập vào hệ thống phòng không của quân địch cho dù cẩn thận và tinh vi đến đâu. B-2 được thiết kế theo những cách thiết kế máy bay tàng hình phổ biến trên thế giới, kết hợp nhiều công nghệ về thiết kế kiểu dáng, vật liệu để mang lại hiệu quả tốt nhất.

Nhìn từ xa máy bay ném bom tàng hình B-2 trông như một con dơi không lồ, không có cánh đuôi, cánh chính được kéo dài. Khung và khoang động cơ dùng hợp kim ti tan, còn lại đều là vật liệu phức hợp đá đen và sợi than có trọng lượng nhẹ, cường độ chịu lực lớn ghép nối bằng áp suất cao, không dùng đinh tán. Bên trên bề mặt vật liệu dạng tổ ong hấp thụ sóng ra đa. Phía trước B-2 được phủ lớp sơn hấp thụ sóng ra đa với thiết kế kiểu tổ ong không quy tắc. Cách thiết kế này giúp máy bay đánh trượt sóng ra đa của quân địch hoặc làm giảm sóng phản xạ, hình ảnh trên màn hình sẽ bị yếu hoặc không xuất hiện. Ra đa không thể phát hiện mục tiêu dẫn đến tên lửa phòng không không có lệnh dẫn đường tấn công mục tiêu.

Ngoài năng lực tàng hình, B-2 còn có sức tấn công mạnh mẽ với khả năng mang 23 tấn vũ khí gồm: 80 bom Mk-82 227kg hoặc 36 bom CBU 350kg hoặc 16 bom hạt nhân B61 trên giá phóng quay. Thậm chí, B-2 còn có thể mang bom thông minh dẫn đường GPS JDAM. Bên cạnh đó, B-2 được trang bị những công nghệ điện tử hàng không tiến tiến gồm: hệ thống ra đa mạng pha điện tử bị động AN/APQ-81cung cấp chế độ ngắm mục tiêu, hỗ trợ B-2 bay bám sát và tránh địa hình; hệ thống định vị hàng không; hệ thống đối phó trả đũa điện tử. B-2 dài 21m, cao 5,18m, trọng lượng cất cánh tối đa 170 tấn và chỉ vẻn vẹn 2 phi công. B-2 trang bị 4 động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy F118-GE-100 cho phép đạt tốc độ 1.010 km/h, tầm bay 10.400km, trần bay 15.000m. Động cơ của B-2 lắp bộ trộn dòng khí, lấy không khí lạnh dẫn vào buồng đốt động cơ và tua bin, làm hạ thấp nhiệt độ mặt ngoài. Loa phụt động cơ nằm sâu trong thân máy bay, qua đó giảm đáng kể tín hiệu hồng ngoại, giúp đối phó với khí tài hồng ngoại của đối phương có thể sử dụng để phát hiện máy bay qua tín hiệu nhiệt động cơ.

Từ năm 1995, khi lần đầu tiên xuất hiện tại triển lãm hàng không tại Pháp và gây kinh ngạc tất cả các chuyên gia và công chúng, cho tới nay B-2 vẫn là một máy bay chiến đấu tàng hình tối tân và chiến đấu hiệu quả nhất. Một số lượng máy bay tàng hình nhỏ có thể thay thế một số lượng lớn phi cơ bình thường trong hiệu quả chiến đấu. Nó không chỉ khiến cho ngân sách quân đội được tiết kiệm một cách đáng kể mà còn mang lại những hiệu quả tiêu diệt khác.

“Quái vật” cũng có điểm yếu

Tuy hiệu quả và đáng gờm như vậy, nhưng ngày nay người ta vẫn đang cố gắng khắc phục những điểm chưa hoàn thiện để tạo ra những máy bay chiến đấu tàng hình hoàn hảo nhất.

Một chiếc máy bay B-2 đang được bảo dưỡng.

Theo Wiki, khi thiết kế các máy bay tàng hình, người ta thường chú tâm vào việc giảm tối thiểumức độ phản hồi sóng điện từ bất thường của vật thểhơn là hoàn thiện chúng về mặtkhí động học. Những máy bay tàng hình cao cấp như B-2 không ổn định về khí động học trên cả ba trục và đòi hỏi hiệu chỉnh liên tục từ hệ thống điều khiển với giao tiếp được điện tử hóa để có thể tiếp tục vận hành trên không trung. Máy bay tàng hình chịu nhiều bất lợi lớn khi bị phát hiện bởi kẻ thù. Các mẫu máy bay tàng hình hoàn toàn hiện nay thiếu các thùng chất đốt phụ, do nhiệt độ từ khí thải của chúng có thể làm tăng mặt cắt ra đa và các dấu vết nhạy cảm với tia hồng ngoại của máy bay. Vì bất lợi đó mà các phi cơ này không thể vượt qua tốc độ âm thanh mà tẩu thoát một cách nhanh chóng. Điều này khiến chúng dễ bị tấn công bởi các máy bay đánh chặn, loại máy bay có khả năng đạt tới tốc độ Mach 2 (tốc độ siêu thanh 2) hoặc cao hơn nhờ có thùng chất đốt phụ. Hình dạng của các máy bay tàng hình còn làm giảm đi sự nhanh nhẹn của chúng trong các cuộc không không chiến, và do vậy, làm tăng nguy cơ bị tiêu diệt của chúng bởi pháo tự động từ các phản lực cơ truyền thống, cho dù mặt cắt ra đa thấp và lá chắn hồng ngoại có hiệu quả thế nào đi chăng nữa trong việc ngăn chặn khả năng khóa mục tiêu của tên lửa. Chiếc B-2 không thể mang theo bất kỳ một loại vũ khí không-đối-không nào.

Sự điện toán hóa ở mức độ cao cùng một số lượng lớn các thiết bị điện tử được lắp đặt trong máy bay tàng hình làm chúng dễ trở thành mục tiêu bởi các sự phát hiện thụ động. Thiết bị dã chiến di động Tamara được sản xuất bởiCộng Hòa Séccó thể bắt được những rò rỉ điện từ rất nhỏ, thậm chí là từ các máy bay có lá chắn tốt nhất. Các máy dò Tamara cung cấp cự ly tổng quát / thông tin về khoảng cách cho các ra đa phòng không để tiến hành khóa mục tiêu bằng cách sử dụng phép quét hội tụ cao.

Các máy bay tàng hình là những thiết đòi hỏi bảo trì ở mức độ cao. Tính chất của vỏ máy bay quyết định hiệu quả tàng hình của nó, bằng cách làm chệch hướng xung lực ra đa nhờ vào đặc trưng hình học của khung máy bay và vào sự hấp thụ sóng điện từ nhờ lớp sơn bề mặt được cấu tạo từ những vi cầu ferit-than chì. Các cửa sổ buồng lái được dát một lớp kim loại mỏng bằng vàng và idium. Nếu vỏ máy bay bị đâm thủng bởi một viên sỏi bắn lên từ đường băng, hay nếu mưa lớn làm hư hại các lớp sơn trên, mức độ phản hồi sóng điện từ bất thường của máy bay sẽ có thể tăng đột ngột. Các máy bay tàng hình thường được vận hành từ nơi có những nhà kho được trang bị điều hòa nhiệt độ có khả năng cung cấp những điều kiện bảo trì và cất giữ tối ưu. Dù cho khả năng duy trì và số lượng khung máy bay có phát triển tăng vọt theo chiều tích cực từ những năm cuối thập niên 90, giá thành của máy bay, chi phí của việc thiết lập những thiết bị chất lượng cao vẫn còn là một gánh nặng kinh tế lớn cho những nước đang vận hành máy bay tàng hình.

Các máy bay tàng hình vẫn có nguy cơ bị phát hiện một cách tức thì trước, trong khi và sau khi nó sử dụng vũ khí. Bởi vì các đầu đạn tàng hình nói chung là vẫn chưa có sẵn, nên tất cả các loại quân trang cho máy bay đều phải được mang ở bên trong thân của máy bay để tránh việc tăng mặt cắt ra đa. Ngay khi cửa chứa bom được mở ra, chỉ số RCS của máy bay sẽ tăng gấp bội và thậm chí một hệ thốngra đađời cũ cũng có thể xác định đựoc vị trí của nó. Các phi công điều khiển máy bay tàng hình nhận được một khoá huấn luyện đặc biệt để giảm thiểu sự phản hồi sóng của vũ khí trong vòng 15-25 giây. Đối với các oanh tạc cơ (bán tàng hình) thế hệ thứ 4 và thứ 5, vũ khí không đối đất được mang chủ yếu trên các khoang chứa vũ khí bên ngoài, chấp nhận nguy cơ bị phát hiện cao hơn. Khoang vũ khí bên trong được dành riêng cho các loại tên lửa chống máy bay khác nhau.

ChiếcB-2 Spirittải theo một lượng lớn bom, nhưng cũng vì vậy mà nó có tốc độ thấp (gần tốc độ âm thanh), dẫn đến việc kéo dài thời gian thực hiện phi vụ. Ví dụ sẽ là 18 - 24 tiếng đồng hồ nếu nó bay nửa vòng trái đất để tấn công các mục tiêu ở hải ngoại. Bởi vậy việc lên kế hoạch chi tiết và thu thập các thông tin tình báo một cách đúng lúc là tối quan trọng cho sự thành công của mỗi lần xuất kích. Trong trường hợp các mục tiêu di động có thể bị tấn công, chiếc B-2 sẽ phải tin vào các thông tin từ vệ tinh hay làm theo chỉ dẫn của các hoa tiêu để đảm bảo thực hiện thành công hành trình bay.

Các máy bay tàng hình thường có một khả năng vận hành tối đa hạn chế. Dù chiếc B-2 Spirit có thể năng thả quân khí tiếp tế lên bất kì mộtdặm vuôngnào trên bề mặt địa cầu trong vòng 12 giờ, về phương diện vận hành, nó trở nên bất tiện bởi hai nhân tố: giá cả thay thế quá cao, vượt ngoài tầm cho phép của GDP của một số quốc gia, điều này dẫn đến một sự phân tích đầy thách thức về hiểm họa và thuận lợi khi xem xét việc triển khai của nó. Máy bay này vẫn có thể được thấy bởi mắt trần, khiến quá trình triển khai của nó phụ thuộc nào thời tiết và thời điểm trong ngày. Những nhiệm vụ tầm xa và đặc tính tránh xa các thiết bị radar làm cho không quỹ đạo, quỹ đạo hạ cánh và cất cánh của nó có thể được dự đoán một cách dễ dàng hơn. Trong khi chiếc máy bay có thể ngụy trang tốt, các vật dụng tiếp tế rất có thể làm lộ sự hiện diện của nó.

Mặc dù vẫn có những điểm yếu của mình, B-2 cũng như các loại máy bay tàng hình khác đang được nghiên cứu và phát triển vẫn giữ những vị trí hàng đầu trong thế mạnh quân sự và được nhiều nước tận dụng triệt để

Trần Phi
.
.
.