Ka lisa Hoàng Hôn

Thứ Năm, 12/09/2013, 14:29

Trong lần gặp những thanh niên dân tộc đăng ký học nghề ở miệt Nam Tây Nguyên. Tôi phát hiện có khá nhiều các em Khor mang tên rất đẹp như KTrọng, KPhước hay Ka Phượng, Ka Hoa… Đặc biệt một em nữ có cái tên vừa thơ mộng lại vừa rất “tây”. Đó là Ka lisa Hoàng Hôn, cô gái Khor 20 tuổi xinh đẹp như một bông hoa giữa triền núi đá.

Hoàng Hôn cao đến 1.7m gương mặt phúc hậu, tóc xoăn dài với làn da nâu và nụ cười rất tình cảm… Nhìn các em mang những tên mới, năng động chọn nghề và chủ động tham gia hội nhập cộng đồng dân tộc ở thế kỷ 21 này đã minh chứng cho lớp trẻ Khor bây giờ không còn hát bài “ gùi trên vai và giáo trong tay” đi len lỏi giữa rừng núi đại ngàn như ngày xưa nữa.

Dân tộc Khor là một trong những cư dân bản địa sống chủ yếu ở vùng Nam Tây Nguyên. Khác với dân tộc Kinh có rất nhiều họ như Nguyễn, Trần, Lê… con cái sinh ra mang theo họ của cha, còn người Khor theo chế độ mẫu hệ nên theo họ mẹ. Dân tộc Khor chỉ có hai họ, nam giới mang họ K và nữ giới mang họ Ka. Thực ra, K và Ka không phải là họ mà chỉ là một danh từ đặt trước tên của người như ông, bà, anh, chị…. Ví dụ: KPlơi có nghĩa là ông Plơi, chú Plơi hoặc Ka lisa Hoàng Hôn có nghĩa là bà/cô/em Lisa Hoàng Hôn.

Trước đây, người Khor chưa có chữ viết, nên việc đặt tên cho con mang âm điệu Môn Khmer như: KPròc, KReo, Ka Nrèng, Ka Rgụt. Sau này được các nhà ngôn ngữ học sáng tạo ra chữ viết theo mẫu tự Latin, vì vậy những thế hệ sinh vào thập niên 80 trở về sau đều sử dụng theo tên mới. Khoảng hơn nửa thế kỷ trước, cũng giống như người kinh sống ở vùng nông thôn thường đặt tên con mang âm hưởng của nền văn minh lúa nước như Trần Thị Tý, Lê Văn Sửu, Huỳnh Văn Lúa… còn người Khor đặt tên con mang hình bóng của thời kỳ hái lượm.

Ngày ấy, các bộ tộc sống giữa núi rừng hoang dã nên việc bảo vệ con người hoặc những phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh đều đặt niềm tin vào sự che chở của Yàng. Chính vì thế trong thời kỳ ở cữ, người Khor thường cắm một cành cây có gai dài khoảng 1m bên ngoài vách nơi gần bếp lửa để ngăn chặn ma quỷ và thông báo nhà có người mới sinh không cho khách và người lạ vào, vì sợ mang tới những điều xấu, ốm đau bệnh tật.

Tại một số nơi ở tận các vùng sâu vùng xa của đồng bào Khor, Mạ, mãi cho đến năm 2000 vẫn còn tồn tại những tập tục cũ như người phụ nữ sắp sinh con phải ra ở một túp lều riêng trong vườn, hoặc chiếc chòi bên suối, thậm chí người mẹ tự đẻ, không cho ai nhìn thấy, cho đến một tuần mới được vào nhà. Bây giờ tập tục ấy đã chấm dứt, phụ nữ được sinh trong nhà bên cạnh bếp lửa than ấm liên tục trong thời gian ở cữ, hoặc nếu sinh con ở bệnh xá, bệnh viện khi về nhà vẫn phải nằm cạnh bếp lửa cháy liu riu.

Theo ông Đoàn Bích Ngọ, người có kiến thức về phong tục Khor cho biết: Cách đây khoảng 50 năm, bà con sống cách biệt với nền văn minh, nên việc phụ nữ trước và sau khi sinh con được mạnh khỏe, bé sơ sinh sống sót là niềm vui cho cả một họ tộc. Vì vậy sau khi đứa bé đủ 7 ngày tuổi, gia đình mới làm lễ tạ ơn và đặt tên. Người Khor tin rằng bất kỳ đứa trẻ nào cũng đều được thần linh che chở trong suốt cuộc đời. Buổi lễ đặt tên được tổ chức trước bàn thờ trong nhà. Lễ vật cúng thần linh bao gồm một chóe rượu cần, một con gà sống, một nhánh chuối, một quả trứng gà, một chén cơm…

Bên cạnh các lễ vật cúng Yàng còn được bày thêm các vật dụng khác như: chiếc gùi nhỏ trang trí nhiều hoa văn, bộ khung dệt vải hoặc chiếc xà gạt, chiếc ná đã được chuẩn bị từ trước để cầu mong thần linh ban cho con gái thì xinh đẹp, chăm chỉ, khéo tay. Con trai thì được dài chân, dài tay như con vượn, khỏe mạnh như con gấu, con beo để gìn giữ buôn làng, săn bắt thú hoang, giỏi việc đi rừng lên rẫy.

Người được mời chứng kiến buổi lễ gồm có ông cậu, già làng, bà mụ và bà con ruột thịt bên nội, bên ngoại. Người chủ tế thường là bố vợ. Trong lúc làm lễ, ông bố đóng khố truyền thống, đầu quấn khăn, tay cầm roi mây và lục lạc. Sau đó ông ôm một con gà đưa lên tầm mắt hướng thẳng lên bàn thờ cầu khấn thần linh với âm sắc trầm bổng: “Ớ Yàng, hôm nay cháu của tôi đã được 7 ngày, tôi xin dâng lễ vật này đến Yàng để tạ ơn và xin đặt tên cho cháu. Tôi cầu xin Yàng NDu, Yàng Brê (thần rừng) Yàng Đạ (thần sông), Yàng Kơhbơnơm (thần núi) che chở cho nó mạnh tay khỏe chân, có cái ăn no bụng và cho nó được sống bình yên tới già….ố hô, ố hô!”.

Phụ nữ K'hor ảnh chụp 1952.

Sau lời cầu xin Yàng của ông bố vợ, tất cả những người trong dòng tộc tại buổi lễ đều chắp tay lâm râm cầu nguyện an lành cho đứa trẻ. Chờ mọi người khấn vái xong, ông chủ lễ cắt tiết gà cho vào chén, còn lưỡi gà được móc ra cầm tay, người cúng vừa đọc tên đứa bé vừa cầm lưỡi gà nhúng vào rượu cần rồi ném lên bàn thờ từ một đến ba lần cho đến khi chiếc lưỡi dính vào vách tre phía sau bàn thờ. Sự kiện lưỡi gà được dính ấy đồng nghĩa là tên của đứa bé đã được thần linh chấp nhận. Sau đó người ta lấy máu gà trong chén chấm lên trán đứa nhỏ xin thần linh che chở cho nó suốt đời.

Tuy nhiên, kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước đã từng bước xây dựng buôn làng thành thôn xã theo mô hình nông thôn mới. Tại các trạm y tế, số lượng các bà mẹ Khor đến khám thai định kỳ hoặc đến trạm xá sinh con càng ngày càng nhiều. Đối với các gia đình có hoàn cảnh neo đơn các cán bộ y tế đến tận nhà đỡ đẻ, đồng thời vận động bà con trong việc phòng chống bệnh tật, hay ăn chín uống sôi.

Cuộc sống của bà con từ lúc định canh định cư chuyển đổi cây trồng như trà, cà phê đã nâng mức sống của các dân tộc gốc Nam Tây Nguyên đổi khác từng năm. Hiện nay tại các huyện Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lâm thuộc tỉnh Lâm Đồng các cư dân bản địa gần như đã chấm dứt cuộc sông du canh du cư phá rừng làm rẫy, những gia đình Khor chịu khó làm ăn trở nên giàu có xuất hiện càng ngày càng nhiều, điển hình là tỉ phú KPhèng ở Di Linh, xây nhà biệt thự, con cái đều học đại học ở thành phố. 

Do đời sống vật chất và văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc được nâng cao theo tiêu chí nông thôn mới, nhất là ở các vùng trồng cây công nghiệp. Lớp trẻ Khor dù là nam hay nữ đều dần dần mất đi bóng dáng của núi rừng hoang dã mà chỉ có hình ảnh sóng đôi trên các triền đồi cà phê, chè hoặc đang ngồi trên ghế nhà trường. Bây giờ Không ít các cháu ra đường, đi phố đi bằng xe máy, mặc áo Pull, quần Jean mang theo điện thoại di động. Mùi mồ hôi nắng cháy hăng hắc của núi rừng cao nguyên ngày nào được thay thế bằng nước hoa thơm phức. Không chỉ đi lên về đời sống, ở thế hệ mới này còn mang những cái tên dễ viết, dễ nhớ và dễ thương….

Ka lisa Hoàng Hôn vẫn còn đứng trước văn phòng. Cô ấy đang chia sẻ tâm sự với bạn bè bằng tiếng Khor của mình. Được ông giám đốc trường dạy nghề cho biết về khả năng tiếng Anh của cô gái vùng cao, nên tôi xin phép gặp và hỏi cháu bằng tiếng nước ngoài vừa kiểm tra khả năng ngoại ngữ vừa muốn biết lý do cha mẹ đặt cái tên khá thơ mộng như vậy. “Cháu không biết, nghe mẹ kể buổi chiều mẹ đau bụng đẻ, rồi ba chở đến bệnh viện và sinh cháu vào lúc 6h chiều nên đặt tên theo thời gian để sau này dễ nhớ”. Ka li Sa Hoàng Hôn giải thích bằng tiếng Anh một cách lưu loát.

Nhắc đến ngày xưa, có lần tôi hỏi một kỹ sư Nhật về sự so sánh của người Việt “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”, người thanh niên cau mày hỏi lại. Sau khi nghe tôi giải thích, anh ta phá lên cười.  Chuyện đó chỉ có từ thời ông cố của tôi, bây giờ làm gì còn”. Việc ấy cũng giống như phụ nữ Khor 50 năm trước, tự sinh con ở túp lều bên suối rồi đến 7 ngày về nhà, được bố đẻ làm chủ tế trong lễ đặt tên, đến nay chỉ còn là câu chuyện kể từ một thời xa vắng

Trần Đại
.
.
.