Mùa mật ong rừng

Thứ Ba, 06/05/2014, 09:00

Hàng năm từ tháng ba đến tháng 6 là mùa hoa rừng nở, cũng là mùa ong đi tìm mật. Mật từ hoa là lộc rừng được thiên nhiên ban tặng cho con người. Ở Nam Tây Nguyên, mỗi năm những người đi ong lấy về hàng ngàn lít mật, mang lại nguồn thu nhập không nhỏ cho gia đình mình. Nếm vài giọt mật ong rừng ngọt lịm, thơm phức làm lâng lâng lòng người. Nhưng ít ai biết rằng để có được mùi vị ngọt ngào vàng sánh ấy, người đi ong không chỉ bán mồ hôi, nước mắt mà còn bán luôn cả hình hài. Họ trải qua bao sự gian truân vất vả, thậm chí mất mạng giữa rừng già heo hút.

Đời người đời ong

Phải hỏi thăm đến 5 người, chúng tôi mới gặp được anh Đỗ Hữu Lợi, thợ lấy mật ong rừng có “thương hiệu” ở tận đầu đèo BLao. Rất may là anh ở nhà, đang mặc quần đùi, mình trần, ngồi trước hiên kéo thuốc lào sòng sọc. Anh Lợi 43 tuổi, dân gốc Hà Tây nhưng định cư ở sơn nguyên này trên 20 năm. Ngoài thân hình vạm vỡ, gương mặt phúc hậu, anh Lợi còn có 10 năm thâm niên đi rừng lấy mật làm nghiệp mưu sinh.

Biết tôi có ý định tìm hiểu về cái nghề leo trèo gian khổ, anh Lợi khoác vội chiếc áo bạc màu sương gió, không cần cài nút, nổ máy xe phành phạch dẫn chúng tôi đến nhà ông Phạm Lực là thầy truyền nghề cho anh, cách đó vài trăm mét. Ông Lực 52 tuổi, quê gốc ở Hương Sơn, Hà Tĩnh sát biên giới Việt - Lào, một người đã có 40 năm làm nghề lấy mật khắp cả Đông Dương, đến cuối đời định cư ở đầu đèo. Hình như những cư dân tồn tại với thiên nhiên còn giữ được khá nhiều mẫu người nguyên chất nên suốt chiều dài câu chuyện, hai thầy trò ông Lực kể cho tôi nghe một cách chân thật về cái nghề mồ hôi gắn liền với sự can đảm vì cơm áo đời thường.

Cây đầy tổ mật.

Ông Lực người dong dỏng cao, nước da tai tái, gương mặt lúc nào cũng như cười. Ông kéo chúng tôi ra ngồi uống trà dưới gốc bơ già đang ra quả đầu mùa chi chít, chậm rãi kể từ một đời người trải nghiệm.

“Ong là một loài sinh vật đặc biệt, về tổ chức giống như con người nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng và kỷ luật nghiêm ngặt hơn. Trong đàn ong, đối với những con lười biếng chỉ biết hưởng thụ đều bị đồng loại xua đuổi ra khỏi tổ, sống vất vưởng vài tuần rồi chết”, ông Lực mở đầu câu chuyện một cách từ tốn.

Dường như để minh chứng sự thành công của người lấy mật, ông dẫn chúng tôi tham quan tổ ấm của mình. Đó là ngôi nhà xây khang trang nằm cạnh con suối suốt ngày lộng gió. Bên hiên, từng chùm hoa lan rừng nở muộn treo lủng lẳng nhuộm vàng cả góc sân. Ông cho biết tiền thu được từ mật và lan rừng mỗi năm đã góp phần làm nên ngôi nhà này. Điều tôi chú ý, trong phòng khách có cặp ngà voi rất lớn. Tôi xin phép được chạm tay sờ vuốt, rồi xót xa chép miệng về con voi bất hạnh đã bị tiêu diệt chỉ để làm món đồ trang trí đánh bóng cho quyền lực một vài con người. Có lẽ đụng chạm với nghề nên ông Lực giải thích đây là sáp ong đổ theo hình ngà voi để kỷ niệm đời người đời ong chứ không phải ngà thật. Những người đi mật không bao giờ sát hại thú rừng, vì luật đời có vay có trả. Ngay cả con gấu, loài động vật tranh giành mật ong với người cũng được xem là bạn, có như thế mới tồn tại bền vững. Ông Lực giải thích theo suy nghĩ của người dạn dày sương gió tồn tại giữa đại ngàn.

“Tôi theo nghề tổ này từ lúc 12 tuổi. Mật ở vùng hạ Lào vàng và đậm đặc hơn, có tổ to bằng chiếc chiếu, nằm vắt vẻo dưới thân nhánh cây cao. Nhiều khi phải trèo 3 tiếng đồng hồ mới đến, khi đến nơi rồi còn phải tính toán để lại cái gì lấy đi cái gì. Mục đích không để đàn ong bị sát thương mà còn chừa lại cho chúng cái ăn vào mùa hoa rừng cạn kiệt. Người thợ ong chân chính nào cũng đều có tâm với nghề, lấy mật nhưng phải biết bảo vệ rừng, bảo vệ ong, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng mới gọi là thợ. Mà muốn trở thành thợ có tâm phải biết được sự bền vững song song để tồn tại. Nhiều lần bọn tôi gặp một tổ ong, chứng kiến hàng nghìn con ong nằm chết la liệt. Xót xa tôi cầm lên ngửi mới phát hiện mùi thuốc diệt côn trùng. Cứ như thế này thì khoảng chục năm nữa ong mật sẽ vắng bóng thôi. Hơn 40 năm trong nghề, tôi theo dõi và nhận ra những con người bất nhân ấy đều phải trả giá một cách đau thương.

Đi tìm mật giữa rừng

Sáng hôm sau, thầy trò anh Lợi dẫn tôi đi rừng lấy mật cách nhà 10km, nơi mà ông Lực phát hiện vài chú ong bay xoáy theo hình trôn ốc hôm trước ở tận chân đèo. Có đi rừng mới thấy sự vất vả gian truân. Chúng tôi khởi hành bằng xe máy chạy theo lối mòn lao vút vào rừng sâu. Ngồi sau anh Lợi, thấy hai chân anh làm việc liên tục, lúc đạp vào mô đất này, lúc đá vào thân cây kia để giữ xe thăng bằng, hiếm thấy anh đặt chân lên cần thắng. Mà có đạp thắng cũng chẳng có tác dụng gì đối với con đường trời đổ mưa hôm qua. Tay ga cứ ồng ộc, máy xe cứ gầm gừ như con thú bị thương cố gắng lết về phía trước. Đi được khoảng 40 phút, chúng tôi bỏ xe lại, phủ lên cành lá ngụy trang, cả 3 người trèo xuống con suối nhỏ ngồi trên tảng đá chờ đợi. Ông Lực phát hiện được mấy chú ong xuống khe tìm nước chỉ cho chúng tôi xem, rồi chăm chú theo dõi hướng bay. Ông giải thích: “Muốn biết con ong làm tổ ở đâu, người tìm mật phải bắt đầu từ những khe nước. Nơi đó, những con ong thợ sẽ ra lấy nước, mình nhìn theo đường bay của chúng mà tìm ra tổ. Con ong rất khôn, khi lấy nước xong không bay thẳng về nhà mà nó sẽ bay vòng vèo để đánh lạc hướng “kẻ thù”. Có con lấy nước xong, quay đầu chui vô bụi, chờ một lát mới chui ra bay thật cao về tổ, đây là loại ong già từng trải. Ngược lại, loại ong tơ thường bay chậm, nhưng lại la cà đâu đó một lát rồi mới chịu về”.

Chúng tôi tiếp tục đi, đến một đoạn suối thoáng, có mấy chú ong bay xẹt xuống lấy nước. Lần này, anh Lợi bảo chúng tôi dừng lại, rồi leo xồng xộc như gấu lên một cây cao hơn chục mét. Chờ những chú ong lấy nước xong, anh định thần nhìn theo. Con ong bay theo vòng xoáy ốc, lên cao quá ngọn rồi bay theo đường thẳng. Lợi tụt xuống gốc cho biết: Tổ ong ở hướng Tây Nam, cách đây chừng 1km, với độ cao khoảng 20m. Chúng tôi theo chân ông Lực, vén cây xuyên rừng dò dẫm cắt đường. Đúng như dự đoán, cách khoảng 800m, một tổ ong mật to như chiếc bàn nhỏ treo lơ lửng dưới một cành cây, cao gần 20m.

Ông Lực và anh Lợi.

Sau khi phát hiện ra tổ, hai thầy trò anh Lợi đi chặt dây rừng, rồi cứ khoảng 1m thì buộc một vòng từ thân đến tổ ong. Đây chính là cái thang để người thợ trèo lên lấy mật. Theo ông Lực, có nhiều tổ ong phải làm từ 30 đến 40 nút dây mới đến nơi. Trước khi bắt đầu trèo, anh Lợi hái một nắm lá rừng có hình dáng như là me chua bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến xong nhổ ra tay rồi xoa lên da, trong phút chốc anh trở thành một người có sắc màu kỳ lạ. Sau đó đi tìm những cành cây khô nhỏ, quấn lá rừng tươi quanh bên ngoài, bật lửa đốt, gọi là “trái khói”. Công đoạn cuối cùng, anh vai mang theo chiếc gùi kèm theo sợi dây để thả mật, tay cầm trái khói, anh Lợi chậm rãi leo lên cây từng nấc. Khi đến tổ, đàn ong bay dạt ra để lộ bánh mật vàng ươm. Anh Lợi cẩn thận chuyền cành bẻ mật rồi thả dây từ từ xuống, Chuyến đi này, hai thầy trò kiếm được 8 lít với giá bán 400 ngàn/lít. Tôi được ông Lực tặng 1 lít làm quà lấy thảo… Trên đường về tôi hỏi loại lá dùng để xoa vào người tên gì? Anh Lợi cho biết loại dược thảo này do một người bạn Lào truyền lại. Nó là món khắc tinh với ong, chúng không dám tấn công mình và anh mỉm cười từ chối cho biết tên.

Được đi trong rừng giữa mùa hoa nở, được quan sát người lấy mật và đời sống loài ong, tôi nhận thấy họ là những lao động chính danh cần mẫn. Người lấy mật còn để lại một phần cho ong tiếp tục bổ sung theo lượng hoa đầu mùa. Ong cung cấp năng lượng cho người, thụ phấn cho hoa. Điều đặc biệt, cả ong lẫn người đều là những chuyên gia lão luyện, rất giỏi trong nghề nghiệp của mình. Nhìn những thao tác thành thục ấy, tôi nghĩ đến những ông bố bà mẹ có kỹ năng nghề nghiệp, có tầm nhìn rộng, họ sẽ nuôi dạy con cái nên người. Suy rộng ra, trong một đất nước những người lãnh đạo có tâm và có tầm, họ sẽ tập hợp được những người giỏi quanh mình. Người tài đức cho dù chỉ trong một lĩnh vực nào đó, bao giờ cũng được xã hội, xóm làng kính trọng

Trần Đại
.
.
.