Ngày này năm xưa: Khám phá Haiti & Dominica

Thứ Tư, 05/12/2018, 15:46
Ngày 5-12-1492, nhà thám hiểm Christopher Columbus trở thành người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đảo Hispaniola, nay thuộc 2 quốc gia Haiti và Cộng hòa Dominica. Ngày nay, người dân 2 quốc gia này lấy ngày 5-12 hàng năm làm Ngày Khám phá.


Hispaniola là đảo lớn thứ 22 trên thế giới, nằm trong nhóm đảo Đại Antilles, Caribbe. Đây là đảo lớn thứ nhì Caribbe sau Cuba, và là đảo đông dân thứ mười trên thế giới.

Thổ dân châu Mỹ xưa có nhiều tên gọi đảo Hispaniola. Theo Gonzalo Fernández de Oviedo và Bartolomé de las Casas thì bộ tộc Taino gọi đảo là Haiti, có nghĩa "xứ núi non". Khi Cristoforo Colombo khám phá ra đảo thì ông đặt tên xứ này là La Isla Española, tức là "đảo của Tây Ban Nha". Địa danh này được các sử gia đương thời dịch lại, dùng tên tương đương theo tiếng La Tinh, nên tên "Hispaniola" được phổ biến trên các bản đồ.

Christopher Columbus.

Christopher Columbus vô tình đặt chân lên đảo trong chuyến hành trình đầu tiên của ông vượt Đại Tây Dương vào năm 1492, nơi chiếc hạm của ông là Santa Maria bị chìm sau khi bị mắc cạn. Một đội quân được để lại tại một tiền đồn đặt tên La Navidad, trên bờ biển phía Bắc của Puerto Plata ngày nay. Khi trở về năm sau, sau sự tàn phá của La Navidad bởi người dân địa phương, Columbus nhanh chóng thiết lập một tiền đồn thứ hai xa hơn về phía đông trong Cộng hòa Dominica ngày nay, La Isabela.

Hòn đảo này là nơi sinh sống của người Taíno, một trong những người bản xứ Arawak. Người Taino lúc đầu đã chấp nhận Columbus và thủy thủ đoàn của ông, giúp ông xây dựng La Navidad trên những gì bây giờ là Môle-Saint-Nicolas, Haiti, vào tháng 12-1492. 

Châu Âu bắt đầu chính sách thực dân đối với hòn đảo vào năm sau, khi 1.300 người đàn ông đến từ Tây Ban Nha dưới sự giám sát của Bartolomeo Columbus (em trai Christopher Columbus). 

Năm 1496, thị trấn Nueva Isabela được thành lập. Sau khi bị phá hủy bởi một cơn bão, nó được xây dựng lại ở phía đối diện sông Ozama và được gọi là Santo Domingo. Đây là khu định cư lâu đời nhất của người châu Âu ở châu Mỹ.

Một số nhà sử học thế kỷ 16 ước tính dân số năm 1492 của Hispaniola hơn 1 triệu người. Chính sách nô lệ khắc nghiệt của thực dân Tây Ban Nha, cũng như việc chuyển hướng cung cấp thực phẩm và lao động tới những người thực dân, đã có tác động tàn phá đến cả tử vong và khả năng sinh sản trong thế kỷ thứ nhất. 

Dữ liệu nhân khẩu học từ hai tỉnh năm 1514 cho thấy tỷ lệ sinh thấp phù hợp với mức giảm dân số hàng năm 3,5%. Chỉ 14.000 người Taínos sống sót vào năm 1517. Năm 1503 thuộc địa bắt đầu nhập khẩu nô lệ châu Phi sau khi một điều lệ được thông qua năm 1501 cho phép nhập khẩu nô lệ bởi Ferdinand và Isabel.

Bản đồ Hispaniola của Nicolas de Fer.

Lần bùng phát bệnh đậu mùa đầu tiên được ghi nhận, trước đây là bệnh bán cầu Đông, xảy ra trên Hispaniola vào tháng 12-1518 trong số các thợ mỏ châu Phi bị nô lệ. Người bản xứ không có khả năng miễn dịch với các bệnh ở châu Âu, bao gồm cả bệnh đậu mùa. Vào tháng 5-1519, có tới một phần ba số người Taínos còn lại đã chết.

Khi Tây Ban Nha chinh phục các vùng mới trên lục địa châu Mỹ, sự quan tâm của nó đối với Hispaniola suy yếu và dân số của thuộc địa tăng trưởng chậm. Vào đầu thế kỷ 17, hòn đảo và các láng giềng nhỏ hơn của nó (đáng chú ý là Tortuga) đã trở thành điểm dừng thường xuyên cho những tên cướp biển Caribbean. 

Năm 1606, chính quyền Philip III ra lệnh cho tất cả cư dân Hispaniola di chuyển đến gần Santo Domingo, để tránh bị cướp biển. Thay vì bảo vệ hòn đảo, hành động của họ giúp những tên cướp biển Pháp, Anh và Hà Lan thiết lập căn cứ của riêng họ trên bờ biển phía Bắc và phía Tây bị bỏ hoang của hòn đảo.

Năm 1665, thực dân Pháp của hòn đảo đã được Vua Louis XIV chính thức công nhận. Thuộc địa của Pháp được đặt tên là Saint-Domingue. Trong Hiệp ước Rymwick năm 1697, Tây Ban Nha chính thức nhượng lại phần thứ ba của hòn đảo này sang Pháp. Saint-Domingue nhanh chóng làm lu mờ phía đông cả về sự giàu có và dân số.

Biệt danh là "Hòn ngọc của Antilles", nó trở thành thuộc địa giàu có nhất và thịnh vượng nhất ở Tây Ấn, với hệ thống nô lệ con người được sử dụng để trồng và thu hoạch mía.

Xuân Trường
.
.
.