Người "tập việc" ê chề ở Nhật

Thứ Bảy, 11/03/2017, 07:04
Người nước ngoài được đưa đến Nhật Bản để làm những việc lương thấp mà công dân Nhật không ai muốn làm. Họ phải chấp nhận là “người tập việc” và phải chấp nhận cảnh khổ.


Luật sư Nobuya Takai, đại diện cho người nước ngoài “tập việc” trong các vụ tranh chấp lao động, nói rằng họ phải giả bộ là người “tập việc” chứ  không phải là người lao động.

Phải “chạy” tiền với “cò” việc làm…

Các công ty không trực tiếp thuê lao động người nước ngoài, nhưng thông qua một mê cung gồm những “cò trung gian” tư nhân và quan chức chính phủ. Đa số người  “tập việc” bị vướng nợ nặng để đóng phí cho “cò” trước khi họ đến Nhật.

Người “tập việc” không thể dễ chuyển việc làm (visa trói buộc họ với chỉ một công ty) nên họ không thể rời bỏ nếu gặp chủ lao động không tốt. Luật sư Takai nói: “Họ không thể đổi việc, và tất nhiên bị mất tiền nếu trở về nước”.

Báo New York Times đã gặp một số người “tập việc” của nhiều nước châu Á, lao động ở nhiều ngành khác nhau, gồm một công nhân xây dựng người Campuchia, một người Trung Quốc hái rau diếp, một số nữ thợ may Trung Quốc và Việt Nam.

Liu Hongmei (bìa phải) người Trung Quốc vỡ mộng kiếm được nhiều tiền ở Nhật

Họ đều cho biết phải “chung chi” cho “cò” việc làm  ở nước họ, thường từ 7.000 đến 11.000 USD để đến Nhật lao động. Đa số trong số họ phải vay tiền của người thân hoặc ngân hàng.

Bà mẹ hai con Tham Thị Nhung cùng 6 nữ công nhân may người Việt Nam phải may quần áo từ 8 giờ sáng đến 22 giờ đêm tại một xí nghiệp may mặc ở tỉnh Aichi (vùng công nghiệp miền Trung nước Nhật). Cả tuần họ không được nghỉ ngày nào. Vào tháng 11-2016, sau khi họ phàn nàn chỉ được trả công 712 USD/tháng, bà chủ xí nghiệp liền gởi thư thông báo đóng cửa xí nghiệp và họ đều bị đuổi việc. Chị Nhung kể: “Bà ta nói không thể trả lương nữa, và nói với chúng tôi một là làm việc tiếp, hai là trở về Việt Nam”.

…Và bị giật tiền lương

Liu Hongmei, người Trung Quốc, chán cảnh làm công nhân may tại một xí nghiệp ở Thượng Hải, vì phải lao động nhiều giờ nhưng lương thấp. Cách đây 3 năm, Liu chấp nhận mang món nợ sau khi trả 7.000 USD cho bọn “cò” để cô có visa qua Nhật, nhằm tìm kiếm được việc làm lương cao. Một công ty may mặc nhận cô, hứa trả mức lương cao hơn 3 lần so với  khoản tiền lương 430 USD/tháng mà cô nhận ở Trung Quốc.

Về chính thức, thời gian mà Liu ủi là, đóng gói trang phục nữ được xem là “tập việc”. Liu hy vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để gởi về gia đình. Cô nhớ lại: “Tôi ngỡ như đó là một cơ hội lớn”. Nhưng không đúng như thế, cô phát hiện điều kiện làm việc quá thiếu thốn, và nhận mức lương thấp hơn so với lời hứa của chủ. Cô nói: “Họ đối xử với chúng tôi như nô lệ”.

Vợ chồng Takeshi Nakahara là chủ của nhiều xí nghiệp may ở Gifu (gần Aichi) và cả chục năm nay họ phải sử dụng thợ may Trung Quốc vì không có người Nhật chịu làm nghề này. Ông ta nói rằng phải trả lương công nhân thấp thì mới có thể cạnh tranh (và có lời) với các xí nghiệp đã chuyển qua các nước khác nhằm tranh thủ nguồn nhân công rẻ ở các nước đó.

Nakahara cũng nói chỉ trả thêm chút tiền công, chứ Liu và các thợ may Trung Quốc tự xin làm thêm giờ và xin nhận tiền công thấp. Dù đấy là một sự dàn xếp phi pháp, nhưng ông ta cảm thấy bị nhóm Liu phản bội, vì các cô đợi đến gần kết thúc hợp đồng 3 năm thì “đua nhau đòi lương”.

Nhóm Liu nhờ nhà hoạt động công đoàn Zhen Kai can thiệp. Zhen người Trung Quốc nhưng sống ở Nhật nhiều năm. Zhen cho biết ông “thông cảm” các công ty làm ăn khó khăn.

Zhen thương lượng với vợ chồng Nakahara, người gợi ý một thỏa thuận bồi thường, ban đầu là 5.800 USD. Liu chấp nhận và sẵn sàng về nước, dù cô vẫn còn nợ tiền người thân. Bốn thợ may còn lại quyết định ở lại Nhật để đòi thêm tiền bồi thường. Sau đó, họ được Nakahara đền từ 10.000 đến 16.000 USD.

Giả bộ là người “tập việc”

Ngành may mặc Nhật đang thật sự gặp khó khăn về tài chính, tình trạng ngược đãi tràn lan, đến độ Bộ Kinh tế - thương mại - công nghiệp Nhật năm 2016 đã hứa điều tra, khi giải trình trước Quốc hội Nhật về kế hoạch mở rộng chương trình “tập việc”.

Liu và cácnhân công Trung Quốc khác ở xí nghiệp đến Nhật thông qua một chương trình “tập việc” do chính phủ bảo trợ. Mục đích của chương trình là bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động cùng với việc cấm dòng nhập cư lương thấp của Nhật.

Nhật đã kéo dài tối đa thời gian, để người “tập việc” có thể ở lại Nhật 5 năm (thay vì 3 năm như trước), và cho phép nhiều ngành nghề thuê người “tập việc”, gồm: nhà dưỡng lão, các công ty dịch vụ vệ sinh văn phòng và khách sạn.

Một nhóm “tập việc” mất chỗ trọ, được tạm trú ở một cơ sở công đoàn.

Quốc hội Nhật phê duyệt việc lập một cơ quan mới nhằm giám sát chương trình “tập việc” hồi năm ngoái, sau khi việc bóc lột sức lao động của người lao động nước ngoài bị phanh phui. Khi cơ quan này được thành lập, kế hoạch là đưa thêm người lao động nước ngoài đến Nhật.

Nghị sĩ Kimura cùng vài đồng nhiệm còn muốn lập một hệ thống “lao động khách mời” chính thức. Dù đây không là cách mở đường cho dòng nhập cư (người lao động có thể về nước) nhưng các nhóm doanh nghiệp hoan nghênh đề xuất này.

Chính phủ Thủ tướng Shinzo Abe chưa phát tín hiệu ủng hộ hay không. Nhưng nghị sĩ Kimura nói: “Nếu chúng tôi muốn tăng trưởng kinh tế trong tương lai thì chúng tôi cần có người lao động nước ngoài”.

Như Mỹ và các nước phát triển khác, Nhật Bản rất khó tìm được người làm các việc vặt như hái rau, làm công việc vệ sinh ở các nhà dưỡng lão và rửa chén bát ở các nhà hàng.

Tại Mỹ, những việc làm lương thấp và không đòi hỏi tay nghề cao này đều do người nhập cư trái phép đảm nhận. Đó là một sự phân công lao động nhưng người nhập cư trái phép đang bị chính phủ của Tổng thống Donald Trump truy lùng để trục xuất.

Nhật Bản từ lâu đã đạt được điều ông Trump muốn làm: không có nhiều người nhập cư trái phép, chính thức khép cửa đối với người muốn có việc làm ở lĩnh vực văn phòng.

Nhưng nay, quan điểm cứng rắn của Nhật về người nhập cư trái phép hoặc hợp pháp đã gây ra vấn nạn này: nhiều ngành nghề ở Nhật đang thiếu nguồn nhân lực lao động trầm trọng, điều đó làm kìm hãm sức tăng trưởng kinh tế. Thế nên, Nhật phải tìm cách giải quyết vấn đề. Theo dữ liệu của Chính phủ Nhật, tổng số người lao động nhập cư ở Nhật năm 2016 là 1 triệu người, nhờ việc cấp visa nhập cảnh cho người “tập việc”.

Theo các nhà hoạt động công đoàn, việc tăng nguồn lao động người nước ngoài này cũng dẫn đến những vụ gian lận, ngược đãi người lao động. Bởi họ là những nhân công hạng hai được đưa từ nước ngoài đến để làm những công việc mà các công dân Nhật không chịu làm. 

Các chuyên gia cho biết những nông trại, doanh nghiệp chế biến thức ăn và nhiều nhà sản xuất đều vất vả duy trì hoạt động nếu như không có người lao động nước ngoài. Giáo sư Kiyoto Tanno của Đại học Tokyo nói: “Thực ra từng loại rau quả bán ở các siêu thị tại Tokyo đều do người “tập việc” hái”.

+ Các dữ liệu Chính phủ Nhật về tai nạn lao động cho thấy người “tập việc” thường bị tai nạn nhiều hơn người lao động Nhật, vì họ không được đào tạo việc làm, do bất đồng ngôn ngữ và bị giao những việc nguy hiểm.

+ Từ năm 2010 đến nay đã có 2 người “tập việc” tử nạn, được Chính phủ Nhật xếp là karoshi (tiếng Nhật nghĩa là chết vì lao động quá sức) nhưng thật sự số người tử vong vì tai nạn lao động có thể cao hơn vì không có báo cáo rõ ràng về giờ làm thêm.

+  Năm 2011, một báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ về tình trạng buôn người, đã cảnh cáo chương trình “tập việc” dẫn đến việc người “tập việc” trốn ở lại Nhật vì không đủ tiền “chung chi” cho “cò”.

+ Khoảng 6.000 người đã trốn ở lại hồi năm 2015, theo Bộ Tư pháp Nhật.

+ Khoảng 60.000 người nước ngoài ở Nhật không có visa hiệu lực, theo Chính phủ Nhật,  so với 11 triệu di dân trái phép ở Mỹ.

Anh Thái (theo New York Times)
.
.
.