Những người châu Âu đầu tiên tìm ra nước Úc

Thứ Tư, 03/05/2017, 14:14
Người châu Âu đầu tiên được cho là nhìn thấy nước Úc là hoa tiêu người Hà Lan, tên Willem Janszoon, vào năm 1606. 29 hoa tiêu Hà Lan khác đã khám phá bờ biển phía tây và phía nam nước Úc vào thế kỷ 17, và gọi lục địa này là New Holland (Hà Lan mới).


Nước Úc là một trong 5 châu lục lớn, một lục địa rộng lớn. Bốn bề là biển, con người đã xuất hiện, sinh sống, phát triển ở đó như thế nào?

Người gốc bản địa được cho là lần đầu tiên đến lục địa Úc bằng đường biển, từ các đảo trong khu vực Đông Nam Á khoảng 40.000 đến 70.000 năm trước.

Người châu Âu đầu tiên được cho là nhìn thấy nước Úc là hoa tiêu người Hà Lan, tên Willem Janszoon, vào năm 1606. 29 hoa tiêu Hà Lan khác đã khám phá bờ biển phía tây và phía nam nước Úc vào thế kỷ 17, và gọi lục địa này là New Holland (Hà Lan mới).

Cho đến năm 1770, nhiều nhà thám hiểm châu Âu khác tiếp bước thám hiểm lục địa này. Nổi tiếng nhất là viên sĩ quan người Anh tên là James Cook, người đã xếp bờ biển phía đông Australia vào Anh quốc và quay lại Úc cùng các kế hoạch định cư ở Botany Bay (nay là Sydney), New South Wales.

James Cook là chỉ huy một hạm đội tàu Anh đến vịnh Botany vào tháng 1-1788, mang theo những người tù từ Anh, lập một khu trại giam. Anh lúc đó muốn đẩy những người tù ra khỏi nước mình cho yên ổn. Và họ tìm thấy Úc, một miền đất hoang rộng lớn, rất tiện lợi để giam tù.

Trung tá James Cook. 

Từ các trại tù, trong thế kỷ tiếp theo, người Anh vươn ra chiếm và lập các thuộc địa trên lục địa này. Thổ dân Úc lạc hậu nhanh chóng bị suy yếu trước sức mạnh công nghiệp của Anh.

Vàng, các mỏ, nông nghiệp tại Úc mang lại sự thịnh vượng cho Anh. Anh cai quản Úc, đến giữa thế kỷ 19, thành lập các nghị viện tự trị trên 6 thuộc địa. Năm 1901, các thuộc địa lập liên bang, và nước Úc ra đời.

Thổ dân phát triển ở khu vực phía nam và phía đông, đặc biệt là thung lũng sông Murray. Khoảng 10.000-12.000 năm trước, Tasmania bị cô lập khỏi đất liền, núi lửa phun trào liên tục…

Các nhà thám hiểm châu Âu như William Dampier mô tả lối sống của thổ dân ở Bờ Tây rất "khốn khổ". Trong khi đó, James Cook lại cho rằng "Người bản địa New Holland" có thể hạnh phúc hơn người châu Âu.

Những người định cư thế kỷ 19 như Edward Curr thấy thổ dân "đã chịu đựng ít hơn và thích cuộc sống hơn đa số những người đàn ông văn minh". Geoffrey Blainey viết rằng, tiêu chuẩn vật chất của người thổ dân thường cao nhiều so với nhiều người châu Âu tại thời điểm Hà Lan khám phá nước Úc.

Nhà thám hiểm người Hà Lan Frederick de Houtman khám phá ra những rặng san hô rộng lớn ngoài khơi bờ biển Tây Úc vào năm 1619, gọi là Houtman Abrolhos. Abrolhos theo tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là "nhìn ra ngoài".

Con tàu Hà Lan Duyfken, do Willem Janszoon dẫn đầu, đã thực hiện cuộc đổ bộ đầu tiên xuống Úc vào năm 1606. Cũng trong năm đó, một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đang đi thuyền trên những vùng biển gần đó đã đổ bộ vào New Hebrides và đặt tên vùng đất "Austrialia del Espiritu Santo" để tôn vinh Nữ hoàng Margaret của Áo, vợ của Vua Tây Ban Nha Philip III.

Năm 1616, Dirk Hartog đi thuyền buồm, trên đường từ Cape of Good Hope đến Batavia, đổ bộ lên một hòn đảo ngoài Vịnh Shark, Tây Úc. Vào năm 1622-1623, Leeuwin lần đầu tiên được ghi lại ở góc tây nam của lục địa, và đặt tên cho Cape Leeuwin.

Người châu Âu đầu tiên được cho là nhìn thấy nước Úc là hoa tiêu người Hà Lan, tên Willem Janszoon, vào năm 1606.

Năm 1627, bờ biển phía nam của Úc đã vô tình được phát hiện bởi François Thijssen và được đặt tên là Land van Pieter Nuyts, để tôn vinh hành khách xếp hạng cao nhất, Pieter Nuyts.

Năm 1628, một phi đội của các tàu Hà Lan được cử đi để khám phá bờ biển phía bắc.

Chuyến đi của Abel Tasman năm 1642 là cuộc thám hiểm đầu tiên của châu Âu đến vùng đất của Van Diemen (sau đó là Tasmania) và New Zealand, và để thám hiểm Fiji. Trong chuyến đi thứ hai năm 1644, ông cũng đóng góp đáng kể vào việc lập bản đồ Úc, làm các quan sát về đất đai và con người của bờ biển phía bắc.

Năm 1664, nhà địa lý người Pháp, Melchisédech Thévenot, đã xuất bản bản đồ New Holland. Thévenot phân chia lục địa thành hai, giữa Nova Hollandia về phía tây và Terre Australe về phía đông.

Emanuel Bowen sao chép bản đồ của Thevenot trong Hệ thống Địa lý Toàn diện (London, 1747), lập Bản đồ hoàn chỉnh của Nam Lục và thêm 3 văn bản quảng bá lợi ích của việc khám phá và thuộc địa hóa đất nước. Một dòng chữ ghi trên bản đồ: Nhà thám hiểm người Hà Lan Abel Tasman cùng vợ và con gái, những người châu Âu đầu tiên đến vùng đất của Van Diemen (nay là Tasmania).

Trong khi người Hà Lan tiếp tục khám phá ở phía tây, người Anh bắt đầu có các chương trình khám phá Úc. John Callander đã đưa ra một đề xuất vào năm 1766 cho nước Anh, tìm một thuộc địa nhằm giam giữ các tù nhân bị trục xuất và để nước mẹ khai thác tài nguyên những vùng này.

Năm 1769, Trung tá James Cook - Chỉ huy tàu HMS Endeavour - đã tới Tahiti để quan sát và ghi lại: "Có lý do để tưởng tượng rằng một lục địa, hoặc đất đai phạm vi lớn, có thể được tìm thấy về phía nam…”. James Cook đã quyết định khảo sát bờ biển phía đông của New Holland, phần lớn lục địa chưa được các nhà điều hành Hà Lan xếp hạng.

Ngày 19-4-1770, tàu Endeavour nhìn thấy bờ biển phía đông của Australia và ít ngày sau đã đổ bộ xuống Botany Bay.

James Cook lập bản đồ bờ biển, báo cáo khả năng lập một thuộc địa tại Botany Bay và chính thức chiếm quyền kiểm soát bờ biển phía đông của New Holland vào ngày 21-2-1770. Trong nhật ký của mình ông ta viết rằng có thể "không dám đi trên bờ biển phía đông New Holland này...”.

Georg Forster, người lái tàu dưới sự chỉ huy của James Cook trong chuyến đi, viết năm 1786: "New Holland, một hòn đảo to lớn hoặc có thể nói là một đất nước tương lai của một xã hội văn minh mới, tuy nhiên có nghĩa là sự khởi đầu của nó có vẻ như là vậy, hứa hẹn trong một thời gian ngắn sẽ trở nên rất quan trọng”.

Cuối thế kỷ 19, các thành phố miền Đông Nam nước Úc tăng trưởng lớn. Dân số Úc (không bao gồm thổ dân, những người bị loại trừ khỏi tính toán dân số) vào năm 1900 là 3,7 triệu người, gần 1 triệu người sống ở Melbourne và Sydney.

Hơn 2/3 tổng dân số người Úc sống ở các thành phố và thị trấn vào cuối thế kỷ, biến "Úc thành một trong những xã hội đô thị hóa nhất trong thế giới phương Tây".

Mỹ Hạnh
.
.
.