Nơi dòng sông đi qua

Thứ Tư, 29/10/2014, 18:00
Trên trái đất này, nơi nào có dòng sông đi qua đều để lại chứng tích. Con sông Dinh, sông Quao ở Ninh Thuận từ bao đời nay đã mang về biết bao phù sa cho người cho đất rồi để lại nền văn minh một thời vang bóng. Dọc theo dòng sông này, ngoài những làng nghề thổ cẩm và gốm đất “làm bằng tay, xoay bằng mông” cổ nhất Đông Nam Á mà còn là đền đài, lễ hội, văn hóa... Đó là tài sản hữu hình và vô hình quý báu của cha ông để lại cho cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Đến Phan Rang, theo con đường “chính ngạch” là cầm giấy giới thiệu cộng với thẻ nghề nghiệp, nên chúng tôi được Sở Thông tin văn hóa cử một nữ thạc sĩ dẫn đi thực tế. Trên đường, tôi cứ bám theo người phụ nữ này, đó là một trí thức Chăm có học vị, duyên dáng, có lối diễn thuyết và đôi mắt biết cười như MC Diễm Quỳnh trên VTV. “Diễm Quỳnh” dẫn tôi đi từ biển Ninh Chữ đến tháp Pôklong Garai rồi qua cánh đồng lúa ven bờ mương Nhật, cuối cùng dừng lại làng gốm, làng dệt thổ cẩm, nơi chứng tích vật thể và phi vật thể của vùng đất ven bờ sông Dinh.

“Diễm Quỳnh” ở Phan Rang

Nếu nói MC Đặng Diễm Quỳnh, Hà Nội, sinh năm 1971 tại đất Thăng Long, mang bóng dáng của nền văn minh Tràng An, tốt nghiệp thạc sĩ ngữ văn tại Trung Quốc, thì “Diễm Quỳnh” Phan Rang cũng sinh năm 1971 tại vùng đất đền tháp, cũng tốt nghiệp thạc sĩ ngành nghệ thuật thị giác tại vương quốc Thái Lan, mang bóng dáng Chăm Pa. Cả hai Diễm Quỳnh này đều có cách nói và nụ cười giống nhau. Họ trở thành người của công chúng, là niềm tự hào của dòng tộc và góp phần làm rạng danh vùng đất nuôi mình lớn lên.

Ven bờ sông Dinh.

Trước khi thân quen với “Diễm Quỳnh” Phan Rang. Tôi tình cờ gặp một phụ nữ “Thái Lan” tại một khách sạn cao cấp. Lúc ấy tại khu tiếp tân, tôi bị thôi miên bởi một bức tranh sơn dầu Cô gái Tràng An mang yếm đào đang cầm cành hoa sen. Tôi cứ đứng tần ngần trầm ngâm trên 15 phút, khi nhìn lại hình ảnh người thiếu nữ xưa với vẻ đẹp dịu dàng. Cũng đã lâu rồi, tôi mới được trải lòng khi nhìn bức tranh mang hồn quốc túy. Đó là vẻ đẹp  “chim sa, cá lặn” một thời, bây giờ không còn nữa, mà nếu còn chỉ là màn dựng lại để quay phim, chụp ảnh. Trong khách sạn có cả tây lẫn ta, nên nhiều lúc phải tránh né mấy vị mắt xanh, tóc vàng để khỏi nói tiếng Anh “mỏi mồm”. Tuy nhiên vẫn không thoát, vì bên cạnh tôi là một phụ nữ Châu Á khá đẹp mang kính cận, mặc bộ y phục Thái Lan sang trọng cũng yên lặng xem tranh. Nghĩ là người đồng cảm về hội họa nên tôi quay sang làm quen và chào bằng tiếng Anh “Xin lỗi, bà là người Thái!”. “ Ô không! Tôi là người Việt, thế ông là người Campuchia à!”, người phụ nữ trả lời bằng tiếng Anh lưu loát. Tôi phá lên cười, rốt cuộc cả hai chúng tôi là người Việt. Trong đời lang thang gặp gì viết đó của tôi vẫn gặp những bi kịch như thế ngay tại đất nước mình. Tôi là người có nước da đen, tóc quăn, gương mặt nắng gió, đầu quấn khăn rằn Nam Bộ, nên khối người lầm tưởng là dân tộc Êđê hoặc Campuchia. Và mọi người biết không! Người phụ nữ “Thái” này, chính là tác giả của bức tranh Cô gái Tràng An pha trà. Là người có mẫu số chung về mỹ thuật, nên hai chúng tôi trở thành thân nhau như tiền kiếp. Mấy hôm sau người phụ nữ “Thái” kiêm hướng dẫn viên dẫn chúng tôi đi dọc bờ biển Ninh Chữ, lên đền tháp Pôklong Garai, Pôrêmê, lội bộ trong xóm làng Chăm ở Bàu Trúc, Mỹ Nghiệp và cuối cùng trở về thăm phòng tranh tại trung tâm thành phố Phan Rang, được nghe chiều dài câu chuyện của người phụ nữ “Thái” tài hoa này.

“Diễm Quỳnh” Phan Rang tên thật là Chế Kim Trung, sinh năm 1971 dân tộc Chăm, dáng người quý phái, cao ráo là thạc sĩ ngành mỹ thuật. Ở Việt Nam mình, họa sĩ nữ không nhiều, nhưng họa sĩ nữ có học, người dân tộc thiểu số lại càng ít hơn. Đối với lao động nghệ thuật, người xem tranh đánh giá về gam màu, nét cọ, hồn người bằng thực tế chứ không có ưu tiên cho các sắc dân vùng miền. Vì vậy, việc một bức tranh thôi miên được người xem là một điều quý hiếm, nhất là tranh tái hiện lễ hội và văn hóa của một thời cổ sử lại tăng thêm giá trị. Thạc sĩ Kim Trung dẫn tôi giới thiệu hết phòng tranh, kèm theo lời giải thích về văn hóa, hồn cốt của dân tộc mình được tái hiện như: Lễ trưởng thành, lễ cưới, lễ hội đầu năm, lễ hội cầu mưa, lễ hội Ka Tê….

Hôm sau, tôi và Kim Trung đi dọc hồ bơi trong khách sạn, chị cho biết “Cũng như những phụ nữ Chăm bình thường, tốt nghiệp đại học sư phạm năm 1994, rồi xin về Trung tâm Hướng nghiệp Ninh Thuận, dạy hội họa, mỹ thuật, thiết kế thời trang... cũng từ cây cọ của nghề đã đưa mình đến thế giới màu sắc. Trong giấc ngủ, mình cứ chập chờn về những vũ điệu Chăm dịu dàng theo âm điệu tiếng trống Paranưng, Ghinăng, tiếng kèn Saranai say đắm. Rồi lại có những giấc mơ về màu gốm tươi hồng long lanh hạt cát vàng Bầu Trúc... có khi đâu đó vang lên tiếng hát của các cô gái với sắc màu thổ cẩm. Thế là mình vùng dậy vẽ. Màu sắc từ ký ức cứ tràn về.… mình đắm đuối vẽ những hình ảnh sống dậy từ quê hương mình đang sống. Thời gian trôi đi, lấy chồng sinh con, nhưng niềm mơ ước trở thành họa sĩ chuyên nghiệp thì không bao giờ cạn. Nhiều đêm, vừa ru con ngủ xong, mình vớ lấy cây cọ để hoàn thành nốt bức sơn dầu còn đang dang dở. Khi con trai thứ hai thôi bú, mình tâm sự với chồng thi vào đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. Sau khi tốt nghiệp, mình được học bổng cao học quốc tế chuyên ngành nghệ thuật thị giác tại Thái Lan…”. Kim Trung kể cho tôi nghe cứ như ký ức tràn về song hành với những nụ cười duyên dáng như MC Diễm Quỳnh.

Trong đời hoạt động nghề thuật tính từ năm 2002 đến nay, Thạc sĩ Kim Trung nhận được 17 giải thưởng cấp quốc gia. Hầu hết các tác phẩm của chị đều là văn hóa Chăm, gắn liền với các chủ đề: Sinh hoạt, tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, kiến trúc. Rồi từ mỹ thuật của hội họa chị chuyển sang ứng dụng trên các sản phẩm gốm, dệt. Lần cuối cùng chia tay “Diễm Quỳnh” Phan Rang, tôi còn nghe văng vẳng lời tự tình nhẹ nhàng của chị “Mình là người Chăm, mà không xây dựng được không gian văn hóa nghệ thuật của dân tộc mình, không nghiên cứu sáng tác và gìn giữ để giới thiệu với công chúng thì ai có thể làm giúp mình được”.

Bóng cây me già

Kỹ sư canh nông Bá Văn Nở ở thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, Ninh Phước là người bạn đàn anh mà tôi rất quý mến lúc còn ở Đà Lạt. Anh Nở là một trí thức người Chăm 67 tuổi, tốt nghiệp trường quốc gia Nông Lâm Mục BLao năm 1970, rồi tiếp tục về Sài Gòn học thêm nghề cơ khí. Mới đây, anh điện thoại bảo tôi về Ninh Thuận để anh em gặp nhau rồi đi thăm đền tháp, làng nghề. Lần này được đến Phan Rang, tôi phóng xe máy lên tận thôn Hậu Sanh để tìm anh. Hai anh em gặp nhau trong nỗi vui mừng kể cho nhau nghe một thời khôn khó. Đêm về ở làng Chăm lặng lẽ, tiếng chim cú văng vẳng, tiếng dê đạp sàn kêu be be. Nằm bên người bạn một thời là nhân chứng, anh Nở trở mình nghĩ về quá khứ. Chỉ mới 3 giờ sáng anh đã thức, bật điện pha trà rồi đập tôi dậy chia sẻ thời “oanh liệt” của mình. Trong đêm vắng anh thầm thì “Anh Đại còn nhớ cô Đàn Thị Nguyệt không?” “Nhớ!”, tôi trả lời, “Bây giờ chị ấy ở đâu?”. “Đi Mỹ rồi, sang bên ấy vẫn bán thổ cẩm người Chăm. Nghe nói Nguyệt bây giờ xinh đẹp và giàu có lắm!”. “Thôi quên chị ấy đi anh ơi! Duyên nợ vợ chồng là có số. Nhiều khi anh sống chung với chị Nguyệt lại xung đột, dẫn nhau ra tòa từ lâu rồi, anh vì sầu tình mà thân tàn ma dại”. Tôi lầu bầu. Anh Nở không nói gì, chép miệng nhìn ra bầu trời đêm, đen như cuộc tình đơn phương vô vọng của mình.

Tôi biết anh Nở thật tình cờ, anh là thành viên trong nhóm người vượt biên bị bắt giao về trại giam mà tôi là cán bộ thụ lý hồ sơ. Sau năm 1975 vượt biên trốn ra nước ngoài được xem là trọng tội. Trong số những người vượt biên có nhiều lý do, riêng đối với anh Nở vượt biên vì tình. Anh yêu chị Nguyệt một cách man dại. Chị Nguyệt là người Chăm, bàn tay vàng của nghề dệt thổ cẩm, chị ra đi vì tiếng gọi trái tim với một người đàn ông khác. Anh Nở yêu chị đơn phương, vẫn quyết tâm đi tìm, nhưng cuối cùng anh không gặp được chị Nguyệt mà đi thẳng vào nhà giam. Trong đêm, anh lọ mọ tìm cho tôi xem một tấm ảnh trắng đen của chị Nguyệt đã ố vàng. Anh cho biết chị Nguyệt sang Mỹ, mở xưởng dệt thổ cẩm nghề gia truyền của dòng tộc từ làng Mỹ Nghiệp. Nghề dệt ở Mỹ Nghiệp không chỉ đơn thuần làm ra tấm vải mà còn nhuộm hồn người vào từng hoa văn họa tiết, mỗi thước vải xuất xưởng đều mang theo tâm trạng của người thợ chứ không phải vô hồn từ máy móc. Anh Nở vẫn ngồi đấy đắm chìm một thời trai trẻ về mối tình đơn phương cuồng nhiệt của mình.

Mô hình tháp Chăm.

Sáng hôm sau, hai anh chở nhau sang nhà ông Thiên Sanh Thềm, nghệ nhân trống Paranưng, Ghinăng và kèn Saranai ở làng Hữu Đức. Trước khi đi anh cho biết “Ở vùng Panduranga (tên gọi của hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận) có khoảng 40 palei (làng của người Chăm). Trong các làng hôm nay, vẫn đang bảo tồn các nhạc cụ truyền thống. Chính tiếng kèn, tiếng trống thổi hồn và làm nền nhạc cho các điệu múa, nhất là điệu Apsara là niềm tự hào văn hóa của đồng bào Chăm. Lớp trẻ bây giờ không mặn mà lắm, sợ sau này mai một nên ông Thềm rất lo. Lúc sang đấy, anh không hiểu gì về trống kèn, anh cứ hỏi. Thằng cha này là bạn cùng thời với tôi anh đừng ngại”.

Ông Thiên Sanh Thềm mới ở tuổi 68 mà tóc đã bạc trắng, da ngăm, trên gương mặt song hành với những nếp nhăn dài theo năm tháng. Ông Thềm sinh ra và lớn lên tại làng Hữu Ðức. Ông cùng với nghệ nhân Phú Sạng là "cha đẻ" của hàng nghìn trống Baranưng, Ghinăng vang khắp miền Panduranga. Ông Phú Sạng giờ tuổi đã cao, sức khỏe yếu nên chuyển sang “Thái thượng hoàng”. Còn lại duy nhất nghệ nhân Thềm, vừa là nhạc công, vừa là người chế tác các nhạc cụ Chăm. Khi được hỏi về nhạc cụ truyền thống, ông cho biết: “Trống Paranưng, Ghinăng, kèn Saranai, không chỉ là bảo vật, mà còn là vật linh thiêng cho lễ hội và chia sẻ nỗi vui buồn của người Chăm. Các nhạc cụ này tạo nên cái hồn cho điệu múa. Nếu không nắm được nguyên lý, hay các bí quyết của dân tộc Chăm thì khó mà tạo ra các điệu Apsara huyền ảo được. Tôi nhớ trong bộ phim Truyền thuyết Jumong. Tướng quân Hamusu dạy cho con trai mình về kỹ thuật bắn cung rằng: Cây cung cũng giống như chân tay của mình, mình làm chủ được thì đích ngắm chỉ là phần phụ”. Trống kèn cũng vậy. Chúng nó cũng là người, chứa đựng cả thế giới tâm linh của người Chăm. Mỗi chiếc trống, chiếc kèn được tạo ra giống như một phần hồn của con người. Trống Paranưng tượng trưng cho thân người, đôi Ghinăng tượng trưng cho hai chân, hai dùi trống là hai cánh tay. Mỗi trống Ghinăng có 16 dây, xuyên qua 16 lỗ, tương ứng với 32 chiếc răng. Trong đó, không thể thiếu kèn Saranai gồm bảy lỗ tượng trưng cho hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng. Khi ba loại nhạc cụ này kết hợp với nhau sẽ tạo thành dàn nhạc Chăm truyền thống.

Ở hai làng Hữu Đức và Hậu Sanh, gần như nhà nào cũng trồng cây me, có những cây to bằng 2 người ôm, tỏa bóng mát rượi ven đường. Me trở thành hồn của cổng làng, là kỷ niệm của đời người ra đi và ở lại. Để chứng minh hồn người thông qua nhạc cụ, “hai cây me già” Thiên Sanh Thềm - Bá Văn Nở sử dụng hai trống và một kèn. Tiếng kèn Saranai réo rắt du dương như bóng người chập chờn dưới tán me xanh.

Làng nghề cổ nhất Đông Nam Á

Ninh Thuận, dải đất nối liền với cao nguyên nên có nhiều sông đổ về biển cả. Sông lớn nhất của tỉnh là sông Dinh, nếu tính cả các phụ lưu sông Mê Lam, sông Sắt, sông Ông, sông Chá, sông Lu và sông Quao thì sông Dinh có chiều dài 246 km và lưu vực là 2050km vuông.

Làng gốm Bàu Trúc và làng dệt Mỹ Nghiệp thuộc thị trấn Phước Dân của huyện Ninh Phước, nằm giữa sông Dinh và sông Quao. Năm 1962,  người Nhật xây dựng cho Việt Nam nhà máy thủy điện Đa Nhim ở đầu nguồn sông Dinh, đến năm 1964 họ xây dựng thêm con mương từ Đa Nhim về Hữu Đức, gọi là mương Nhật. Chuyện con kênh này có nhiều huyền thoại khi đi qua núi Đá Trắng với đàn heo vàng xuất hiện trong đêm. Hiện nay Mỹ Nghiệp và Bàu Trúc đã lên phố lên phường nhưng vẫn giữ dáng vẻ một làng quê với vườn cây, ruộng lúa và nếp nhà xưa cổ kính. Tuy vẫn theo đuổi nghề nông, nhưng đồng bào Chăm ở đây vẫn không quên nghề làm gốm mà tổ tiên truyền lại. Theo tài liệu của ngành khảo cổ học, nghề làm gốm của người Chăm có cách đây từ 3.500 - 4.000 năm. Người Chăm gọi nghề làm gốm là nghề làm nồi, vật liệu chính là đất tượng trưng cho Đất Mẹ, mọi công đoạn chế tác đều làm bằng tay. Kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình theo chế độ mẫu hệ... nghệ nhân làng gốm Bàu Trúc hiện nay không chỉ phục vụ cho cuộc sống đời thường mà còn tôn vinh giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Đó là những chiếc bình Vũ nữ Apsara, với những hình ảnh tế lễ khắc họa trên vại, trên nồi, hay chạm khắc những vị thần linh trên sản phẩm như làm tăng thêm nét huyền bí cho đồ gốm Chăm Bầu Trúc.

Ăn theo uy tín của kỹ sư Nở, tôi đến thăm cơ sở làm gốm của bà Đàng Thị Phan, người có trên 50 năm làm nghề được con trai bà là anh Đàm Năng Tự cho biết: “Sản phẩm mỹ nghệ của gia đình ngoài tượng, bình đất Apsara còn có sản phẩm tháp Chăm”. Anh chỉ vào mô hình đền tháp cho biết “Tháp này dựa theo kiến trúc cổ. Tháp gồm 3 phần: Đế tháp tượng trưng cho "địa ngục", thân tháp là "trần gian", ngọn tháp là "thiên đàng". Ở thân tháp có 4 tầng, trong đó 3 tầng thân giữa mỗi bên góc có "4 búp" còn đỉnh tháp (tầng thứ 4) có 1 búp tháp. Tổng cộng là 13 búp tháp. Đây là con số lớn nhất và đẹp nhất theo quan niệm của người Chăm. Và các mặt bên của tháp sẽ được đúc hình vị thần Siva mang ý nghĩa tôn thờ vị vua đã có công hình thành, phát triển cộng đồng Chăm. Như vậy cả một hình gốm tạo ra sản phẩm hình tháp Chàm đã mang nhiều ý nghĩa về nòi giống, bản sắc, tín ngưỡng của một dân tộc.

Câu chuyện trở nên sống động khi mẹ anh xuất hiện. Bà Phan cho biết thêm: "Hầu hết các làng gốm trên đất nước Việt Nam được làm bằng bàn xoay. Chỉ riêng ở Bàu Trúc người thợ làm từ đôi tay tạo hình sản phẩm, chân đi lùi, mắt quan sát. Chúng tôi vẫn thường hay nói, đó là nghề "làm bằng tay, xoay bằng mông". Trong các sản phẩm gốm đều có chất "vàng non" từ đất sét của vùng đất Chăm và cát của con sông Quao. Nhìn thật tinh và kĩ càng mới thấy được các hạt vàng óng ánh chiếu sáng". Kể về một kỷ niệm đến Nhật Bản biểu diễn về các sản phẩm gốm và văn hóa Chăm, bà Phan kết luận: "Chỉ có đất sét vùng đất của  người Chăm và cát ở sông Quao mới làm được gốm mà không cần bàn xoay. Lần ở Nhật, tôi đã lấy đất làng Chăm lên bàn xoay của Nhật làm thử nhưng không được. Rồi lấy đất của Nhật làm thử bằng tay như Bàu Trúc thì nó sụp xuống. Còn đất sét của làng Bàu Trúc thì đắp được bệ cao lên đến 2m khiến người Nhật ngỡ ngàng".

Cách Bàu Trúc non một cây số là làng dệt Mỹ Nghiệp, nhưng vào buổi trưa với cái nắng như rang. Hai anh tôi ghé vào quán nước mía ven đường. Kỹ sư Nở kể nghề dệt cho tôi nghe như người trong cuộc. Anh chỉ tay về phía làng giải thích: “Mỹ Nghiệp là làng nghề dệt cổ nhất Đông Nam Á, tuy nguyên liệu và màu sắc phải mua chứ không trồng bông và lấy màu từ vỏ cây rừng như trước nhưng hoa văn và họa tiết vẫn giữ nguyên. Chẳng hạn như hoa văn của các vị chức sắc tôn giáo mang hình con rồng. Hoa văn dành cho người bình dân là quả dưa, chân chó, hạt mưa, dây leo…

Là người yêu thích các vật dụng làm bằng tay, tôi từng đi cả Tây Nguyên để viết về nghề đan gùi, đúc- thử cồng chiêng, vòng bạc đeo tay… Bây giờ là gốm và dệt ở miền biển của đồng bào dân tộc ít người. Tôi phát hiện ra, ở phía sau sự say sưa yêu nghề của các già làng nói về cổ vật truyền thống một cách tâm huyết là tiếng thở dài “Mình đã cố gắng hết mức, nhà nước bỏ tiền tổ chức các lớp dạy nghề ngắn hạn dài hạn, nhưng lớp trẻ bây giờ không mặn mà, không biết rồi sẽ ra sao!”. Tôi nhớ tiếng chặc lưỡi của già làng KVỗi ở buôn Pru vài năm về trước.

* * *

Buổi chiều tạm biệt kỹ sư Nở, chúng tôi bắt tay nhau ở chân tháp Pôrêmê tại đỉnh núi của làng Hậu Sanh. Lúc ấy trời bắt đầu đổ mưa, những giọt mưa bay bay trên tầng tháp cổ. Từ đỉnh núi này thấy cả thành phố Phan Rang, thấy cả màu xanh ven bờ sông Dinh êm ả. Tôi nhớ đến thánh địa Mỹ Sơn, nhớ tháp Poklong Garai được nhà nước thuê chuyên gia nước ngoài đến trùng tu hàng trăm tỉ đồng. Từ năm 2011 chính quyền Ninh Thuận đã đầu tư tiếp thị 23,6 tỉ cho làng nghề Chăm. Có người kể rằng ông Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận Nguyễn chí Dũng đã vận động bạn bè và lấy tiền túi của mình tặng 500 triệu cho Bàu Trúc-Mỹ Nghiệp làm vốn… Điều ấy đã chứng tỏ rằng nhà nước mình đã tìm mọi cách khôi phục tôn tạo không những đền đài mà còn duy trì nghề truyền thống. Đó là tâm đức và trách nhiệm của con cháu bằng mọi giá phải giữ gìn tài sản của ông cha để lại

Trần Đại - Bá Nở
.
.
.