Phát minh máy điện báo

Thứ Năm, 20/06/2019, 16:43
Ngày 20-6-1840, Samuel Morse đã nhận bằng phát minh máy điện báo, một phương tiện liên lạc quan trọng của con người.


Năm 1825, thành phố New York đã ủy thác cho Morse vẽ một bức chân dung của nhà quý tộc Marquis de Lafayette ở Washington, DC. Trong khi Morse đang vẽ tranh, một sứ giả cưỡi ngựa đã gửi một lá thư từ cha ông, viết rằng: "Người vợ thân yêu của con đang hồi phục".

Thế nhưng, ngày hôm sau ông nhận được một lá thư khác của cha kể chi tiết về cái chết đột ngột của vợ ông. Morse ngay lập tức rời Washington về nhà ở New Haven, để lại bức chân dung dang dở. Khi ông về đến nơi, vợ ông đã được chôn cất. Đau lòng vì nhiều ngày qua không biết gì về sức khỏe của vợ mình và cái chết của bà, ông quyết định tìm hiểu một phương tiện liên lạc đường dài nhanh chóng.

Samuel Morse.
Máy điện báo đầu tiên của Morse.

Trong khi trở về bằng tàu từ châu Âu vào năm 1832, Morse đã gặp Charles Thomas Jackson ở Boston, một người rất giỏi về điện từ. Chứng kiến nhiều thí nghiệm khác nhau với nam châm điện của Jackson, Morse đã phát triển khái niệm điện báo một dây. Ông đặt bức tranh “Phòng trưng bày Louvre” của mình sang một bên để tập trung phát triển điện báo.

Máy điện báo Morse ban đầu, được gửi cùng với đơn xin cấp bằng sáng chế của ông, là một phần bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Mỹ tại Viện Smithsonian. Theo thời gian, mã Morse, mà ông đã phát triển, dần trở thành ngôn ngữ chính của điện báo trên thế giới. Và nó là tiêu chuẩn để truyền dữ liệu bằng âm thanh.

Trong khi đó, William Cooke và Giáo sư Charles Wheatstone đã biết về điện báo điện từ Wilhelm Weber và Carl Gauss vào năm 1833. Họ đã đạt đến giai đoạn phóng điện báo thương mại trước Morse, mặc dù bắt đầu sau đó. Ở Anh, Cooke bị mê hoặc bởi điện báo vào năm 1836, 4 năm sau Morse. Nhờ có nguồn tài chính lớn, Cooke đã bỏ nghề chính về giải phẫu để chế tạo một máy điện báo nhỏ trong vòng 3 tuần.

Wheatstone cũng đang thử nghiệm điện báo và (quan trọng nhất) hiểu rằng một pin lớn sẽ không mang tín hiệu điện báo trong khoảng cách xa. Ông đưa ra giả thuyết rằng nhiều pin nhỏ đã thành công và hiệu quả hơn rất nhiều trong nhiệm vụ kéo dài khoảng cách điện báo. Tuy nhiên, trong một vài năm, phương thức báo hiệu nhiều dây của Cooke và Wheatstone đã bị vượt qua bởi phương pháp rẻ hơn của Morse.

Trong một bức thư năm 1848 gửi cho một người bạn, Morse kể lại việc ông đã chiến đấu mạnh mẽ như thế nào để được gọi là nhà phát minh duy nhất của điện báo điện từ, bất chấp những phát minh trước đó.

Morse gặp phải vấn đề nhận tín hiệu điện báo để truyền qua hơn vài trăm thước dây. Bước đột phá của ông đến từ những hiểu biết của Leonard Gale, giáo sư hóa học tại Đại học New York. Với sự giúp đỡ của giáo sư Gale, Morse giới thiệu mạch thêm hoặc rơle theo chu kỳ thường xuyên và đã sớm có thể gửi một tin nhắn vượt qua 10 dặm (16 km) dây.

Morse đã tới Washington, D.C. vào năm 1838 để tìm kiếm sự tài trợ của liên bang cho một đường dây điện báo nhưng không thành công. Ông đến châu Âu, tìm kiếm cả tài trợ và bằng sáng chế, nhưng tại London ông phát hiện ra rằng Cooke và Wheatstone đã được ưu tiên. Trở về Mỹ, cuối cùng Morse đã nhận được sự ủng hộ tài chính của ông Francis Ormand Jonathan Smith, nghị sĩ bang Maine. Khoản tài trợ này có thể là ví dụ đầu tiên về việc chính phủ hỗ trợ cho một nhà nghiên cứu tư nhân, đặc biệt là tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng (trái ngược với nghiên cứu cơ bản hoặc lý thuyết).

Xuân Trường
.
.
.