“Tazan” 80 năm sống trong hang đá

Thứ Ba, 10/09/2013, 11:11

Chín mươi tư tuổi, tám mươi mốt năm lầm lũi sống trong rừng sâu. Con cái phương trưởng đề huề nhưng nhất định không chịu sống cùng với người con nào. Hễ bước chân về phố là ốm. Thế nên người dân trong vùng đã đặt biệt danh cho cụ là "dị nhân người rừng". Cụ là Đinh Văn Ưởng, thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải (Hoa Lư, Ninh Bình).

"Mắc nợ" với rừng

Ban đầu chúng tôi cũng chỉ định vào nhà bà Đinh Thị Sắng để hỏi thăm về “người rừng” Đinh Văn Ưởng, là bố đẻ của bà Sắng. Thế nhưng không ngờ khi vào đến nơi, người mà chúng tôi cần tìm lại đang nằm buồn thiu trên một cái giường nhỏ. Hỏi người cháu dâu của cụ Ưởng thì được chị cho biết, cụ mới về nhà để làm giỗ cho vợ được hai ngày nay. Thông thường cứ làm giỗ cho vợ xong thì cụ Ưởng lại lập tức trở về rừng. Thế nhưng lần này các con của cụ đã không đồng ý cho cụ quay trở lại đấy nữa.

Bởi ít gì năm nay cụ cũng đã 94 tuổi, và mới chỉ trước đó không lâu cụ Ưởng đã phải nhập viện cấp cứu vì bị đá đè vào người tưởng chết. Con trai của cụ đã giấu chìa khóa và bảo người canh gác cụ, không được để cụ bỏ trốn vào rừng. Thế nhưng cái sự thương cha của các con cụ Ưởng đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của cụ. Mấy ngày qua cụ Ưởng nhất định bỏ ăn bỏ uống, không nói không rằng. Câu nói duy nhất mà cụ Ưởng nói với các con là: "Cho tao về lại quê hương tao đi. Tao nhớ quê hương lắm rồi".

Khi chúng tôi đến, cụ vẫn nằm y như cũ, không nhúc nhích cũng chả buồn trò chuyện. Thế nhưng khi nhắc đến rừng là mắt cụ sáng lên, tinh thần phấn chấn hơn hẳn. Cụ nói: "Đi đi, đi vào quê hương tao nhé. Ở trong đó thích lắm!". Nói rồi cụ bật dậy và một mực đòi quay trở về "quê hương". Bà Sắng nước mắt ngắn dài năm nỉ xin cha đừng đòi vào rừng nữa mà hãy ở lại đây để các con chăm sóc nhưng cụ không nghe. Sau rồi, bà Sắng phải nhượng bộ, đồng ý đưa cụ về thăm lại rừng. Nhưng yêu cầu cụ Ưởng phải hứa là chỉ vào thăm thôi, thăm xong nhất định phải quay về. Cụ Ưởng gật đầu.

Thật không thể tin được một ông cụ sống gần trọn một thế kỷ, đang nằm ọp ẹp là thế vậy mà chỉ cần nhắc đến rừng, đồng ý cho cụ trở lại rừng là lập tức bật dậy. Mò mẫm tìm cây gậy để ở cuối giường, rồi giục chúng tôi nhanh nhanh chóng chóng đi cho kịp.

Suốt dọc đoạn đường ngồi trên thuyền đến "quê hương" của cụ Ưởng, bất kể người lái đò nào khi gặp thuyền của chúng tôi cũng đều hỏi han. Người thì hỏi bà Sắng: "Sao nghe nói đợt này "bắt" cụ ở nhà cơ mà? Giờ lại cho cụ vào rừng à?". Người lại hỏi: "Thế không sợ vào đến đó rồi cụ cứ ở rịt trong đó thì làm sao?". Bà Sắng đáp nhời: "Không. Cụ hứa rồi. Cụ đồng ý chỉ vào thăm rồi về thôi".

Trời cuối hạ. Ngoài trời nắng như đổ lửa. Vậy mà ngồi trên thuyền cụ Ưởng không ngừng ngâm thơ rồi kể chuyện cuộc sống hoang dã nơi rừng sâu cho chúng tôi nghe. Hỏi cụ có mệt không thì cụ lắc đầu bảo rằng: "Không. Phấn khởi lắm. Vào "quê hương" ai lại mệt bao giờ".

Hang đá nơi cụ Ưởng sinh sống.

Ở quê cụ Ưởng, mỗi khi nhắc đến cụ người ta vẫn thường gọi trêu là "dị nhân người rừng". Riêng những đứa con của cụ thì vẫn than thở rằng cụ có số "giời đày". Việc cụ Ưởng gắn bó cả đời mình với rừng sâu ban đầu cũng có lý do. Năm 13 tuổi, cụ Ưởng bị lính Pháp bắt đi phu. Sau một năm khổ sai, cụ trốn thoát vào rừng sâu. Thấy lính Pháp truy lùng gắt gao, cụ Ưởng ở rịt trong rừng luôn. Mấy năm sau cụ mới dám trở về nhà thăm bố mẹ. Thế nhưng thật lạ, cụ Ưởng về nhà cũng chỉ mắt trước mắt sau, biết tình hình của những người thân rồi như có một sợi dây vô hình nào đó cứ bắt đôi chân cụ phải tìm về rừng sâu. Ban đầu người nhà gàn rất nhiều, ai cũng nói "sóng gió" qua rồi cứ việc ở nhà thôi đừng vào lại đó nữa. Song cụ không chịu, mọi suy nghĩ lúc nào cũng chỉ hướng về rừng, về những hang đá và những rặng cây mà cụ đã tự tay gieo trồng, chăm bón.

Sau này đến tuổi lập gia đình, bố mẹ bắt cụ Ưởng về lấy vợ với hy vọng có vợ rồi có cả con sẽ giúp cụ quên đi nỗi nhớ rừng và chấp nhận trở về cuộc sống của một người bình thường. Nhưng, mong muốn của các cụ thân sinh ra cụ Ưởng đã không được toại nguyện. Bởi lấy vợ xong, mới qua tối động phòng thì ngay hôm sau cụ Ưởng lại khăn gói về "quê hương". Cụ nói với vợ: "Tôi không thể sống thiếu "quê hương" được đâu. Cô đồng ý theo tôi vào rừng thì chúng ta cùng chung sống ở đó". Người vợ nước mắt ngắn dài nhưng cũng buộc phải chấp nhận. Bởi bà không muốn mang tiếng vừa lấy chồng mà đã bị chồng bỏ rơi. Nhưng sống với chồng được một thời gian ngắn, vợ cụ Ưởng đã không thể chịu đựng được cuộc sống quá hoang dã ăn hang ở lỗ, muỗi đốt khắp người, cái gì cũng thiếu nên đã phải khăn gói về lại quê. Dù có vợ mới cưới nhưng cũng phải thi thoảng lắm cụ Ưởng mới lại trèo thuyền về thăm vợ. Hoặc nhiều khi gia đình phải có công có việc gì không đừng được thì cụ mới chịu rời "quê hương" một vài ngày mà thôi.

Cuộc sống hoang dã và những lần thoát chết kỳ diệu

Với cụ Ưởng, rừng chính là cơm để ăn, nước để uống và không khí để thở. Nếu thiếu rừng cụ có thể thành ngơ ngẩn, sẽ chết mòn. 13 tuổi, cụ bắt đầu cuộc sống của một Tazan và đến nay cụ đã 94 tuổi. Hơn 80 năm lủi thủi sống trong rừng sâu, mọi thứ sinh hoạt hằng ngày đều do cụ tự kiếm. Lúa thì trồng trên núi, rau rừng và cá dưới sông. Đến nay "cơ ngơi" mà cụ khai hoang được là những vạt rừng ngút ngát hoa trái. Cơ man nào là na, ổi, dâu da xoan, nhãn… Những thứ đó cụ Ưởng không bán mà chỉ đem về chia cho con cháu hoặc những người lái thuyền trên sông vào khu du lịch. Ai đến cụ cũng mời hoa thơm, trái ngọt. Khi về lại có quà mang theo.

Hằng ngày cụ Ưởng thức dậy từ tờ mờ sáng, trèo lên các bậc núi để ươm thêm cây. Đôi khi lại bê những tảng đá xanh to để xây "nhà". Có vào "quê hương" của cụ mới thấy được sự kỳ công và tình yêu mà cụ dành cho những cái hang của mình. Xây "nhà" cũng là một thứ đam mê của cụ. Lúc còn trẻ, sức khỏe dẻo dai, cụ Ưởng rất thích công việc khám phá địa điểm đẹp để dựng "nhà".

"Nhà" của cụ chính là những cái hang rộng, phía trên hở để không khí lọt vào. Phía dưới là những vạt đá to và phẳng để làm giường. Quả thật, khi bước chân vào những cái hang đó, cảm giác như đang chui vào phòng điều hòa mát lạnh. Cụ bảo: "Ngủ trong này sướng lắm. Mát lạnh". Nhưng sau này khi tuổi đã cao, các con của cụ xót bố phải nằm trong hang đá lạnh lẽo nên đã cùng nhau xây cho cụ một căn nhà nhỏ phía bìa rừng để có nơi tránh mưa, tránh bão.

Ngồi trước cửa ngôi nhà nhỏ tí xíu, những con muỗi to như con ruồi thi nhau lao vào phía chúng tôi mà chích. Cảm giác khó có thể chống chọi lại với chúng. Thế mà người đàn ông già này đã có thâm niên hơn 80 năm sống chung thân cùng chúng. Hỏi cụ có bí quyết gì không thì cụ Ưởng cười móm mém: "Sống lâu thì quen thôi. Kẻ thù rồi thì cũng thành bầu bạn hết".

Một mình sống trong rừng sâu, cụ Ưởng đã "bao phen mon men vào cửa tử, nhưng rồi chưa tới số nên lại bị đuổi ra" - cụ hài hước nói vậy. Để minh chứng cho lời của cha mình, bà Sắng kể lại: "Số cụ nhà tôi lạ lắm. Hình như ông trời cho sống để đày thêm thì phải. Có những lần tưởng chết mười mươi rồi mà vẫn qua được. Lần gần đây nhất, cụ đi lên núi, bị hòn đá xanh to nó rơi vào chân không giãy ra được. Cụ phải nằm bất động ở đó đến mấy ngày mới có người đi rừng phát hiện ra. Đến khi người ta cứu được thì cụ đã ngất vì đói, còn phần chân bị đá đè đã thối và có giòi bò".

Một lần khác, cụ bị rơi từ trên vách núi xuống vực với độ cao đến ba, bốn mét. Khắp người nham nhở, trầy xước thế mà rồi cũng không làm sao. "Còn một lần tôi đi vần đá về xây "nhà", chẳng may vấp thế là tảng đá đó nó đè ngang ngực. Đá to lắm nên tôi không thể nào đẩy nó ra được. Sau này có một người làng vào xin hoa quả, họ mới phát hiện ra tôi nằm ở đó rồi hô hoán mọi người vào cứu tôi đấy. Lần đó tôi phải nằm viện mất 5 ngày".

Sống ở rừng, chết cũng muốn chết trong rừng

Cụ Ưởng có cả thảy 5 người con. Người sống ở quê, người sống trên phố nhưng ai nấy đều có nhà cửa đàng hoàng. Những người con của cụ đã biết bao lần họp bàn với nhau tìm cách đưa bố về chăm sóc nhưng bất thành. Thuyết phục thế nào cụ Ưởng cũng không nghe. Cụ bảo nếu không cho cụ vào rừng sống thì cụ thà chết đi còn hơn. Xót bố sống khổ sở và cô độc trong rừng sâu nhưng các con của cụ không còn biết làm gì khác là đành chiều lòng bố. Bởi có những lần các con của cụ kiên quyết thì cụ Ưởng còn kiên quyết hơn. Cụ nhất định tuyệt thực, đói lả ra cũng chịu. Thương bố, các con cụ lại phải để cụ vào rừng.

Đường về “nhà”.

Cái lần cụ bị đá chèn qua ngực phải nằm viện điều trị. Thế mà, vì nhớ rừng quay quắt cụ rút cả ống truyền dịch rồi len lén trốn con để "mò" về rừng. Cụ cười bảo: "Có làm sao đâu. Vào đến rừng là mọi bệnh tật tiêu tan hết. Đi trồng cây, đi bắt cá, hái quả là khỏe ngay mà".

Trời phú cho cụ có được sức khỏe diệu kỳ. 94 tuổi nhưng giọng hát vẫn ngân vang. Quãng đường khoảng 30 phút ngồi trên thuyền để trở về "quê hương", cụ Ưởng nói và ngâm thơ không ngừng nghỉ. Con gái cụ lắc đầu than thở: "Khổ thế đấy cô chú ạ. Ở nhà thì tuyệt nhiên không nói câu nào. Con cái hỏi cũng không buồn trả lời. Thế mà chỉ cần nói đến được về rừng cái là cụ phấn chấn thế này đây".

Đúng là lạ thật. Chỉ mới cách đó không lâu là một cụ Ưởng nằm bẹp, buồn thiu trên chiếc giường nhỏ. Từ lúc bước chân xuống thuyền lại là một cụ Ưởng hoàn toàn khác, mạnh mẽ và phấn chấn.

Lần này, để cho chắc ăn, bà Sắng đưa cha và chúng tôi vào thăm "quê hương" của cụ nhưng không cầm theo chìa khóa nhà. Bởi bà Sắng rất lo, chỉ cần cụ bước vào căn nhà đó thôi thì sẽ không ai có thể bẩy được cụ ra nữa.

Trưa muộn. Ngoài trời nắng vẫn gắt. Bà Sắng nói với cha là đã đến giờ về. Lần này cụ Ưởng không năn nỉ, cũng không có hành động "ngoan cố" nào. Cụ chống gậy theo con gái, đi bên cạnh chúng tôi. Chốc chốc cụ lại ngoái lại nhìn căn nhà nhỏ ấy, những cái hang ấy và bạt rừng ấy. Cứ như thể cụ đoán biết rằng, rất có thể đây sẽ lần cuối cùng cụ được trở về với "quê hương" của mình, được thăm lại cái nơi đã gắn bó với mình hơn 80 năm qua. Tôi nhìn thấy trong đôi mắt già, nhăn nheo ngân ngấn nước

Phong Anh
.
.
.