'Truyền nhân' rối nước

Thứ Ba, 21/07/2015, 11:00
Trong khi ai cũng muốn thoát khỏi lũy tre làng chật hẹp thì Nguyễn Văn Viên (xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội) vẫn bền bỉ gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn. Giữa thời đi đâu cũng thấy người ta nhắc đến công nghệ, anh lại có vẻ như là lạc hậu khi chọn cho mình một lối đi riêng chẳng giống ai: Đẽo rối. Trong mắt người làng, thanh niên mà đẽo rối như anh, không hâm thì cũng thuộc dạng gàn; còn với những kẻ trọng văn hóa truyền thống thì thời buổi này, người như anh Viên quả là “của hiếm”.

‘‘Gia truyền”

Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội) quê anh Viên không phải là nơi duy nhất của xứ Đoài có loại hình rối nước. Song cái đặc sắc và độc đáo làm nên một Chàng Sơn trộn không lẫn được trong “cộng đồng rối nước” là: phường rối Chàng Sơn chỉ biểu diễn rối nước bằng chính những quân rối do phường mình tạo nên, tuyệt đối không được đi mượn hay đi mua từ nơi khác về. Không ai rõ lịch sử rối nước Chàng Sơn, anh Viên cũng thế. Họ chỉ biết đã vài trăm năm nay, những quân rối xanh đỏ đã theo cụ kị, ông bà của họ lặn lội trên bờ, dưới nước.

Đẽo rối chưa bao giờ là nghề, càng không phải là công việc có thế kiếm được tiền, nó chỉ là thú chơi tao nhã lúc nông nhàn của người nông dân hai sương một nắng. Song không phải vì thế mà đẽo rối không “gia truyền”. Theo “gia phả truyền khẩu” mà các cụ còn nhớ được thì hiện giờ anh Viên đã là đời thứ 6 của dòng họ chuyên đẽo rối phục vụ cả trong và ngoài phường rối nước Chàng Sơn. Trưởng phường đầu tiên là cụ Trúc Nguyên (thường gọi là cụ Trùm Nguyên), cụ Trùm Nguyên truyền cho con trai là Trùm Hữ, Trùm Luật là đời thứ 3, Quản Tân là đời thứ 4, Trùm Dậu là đời thứ 5; anh Viên mới là Phó phường rối Chàng Sơn nên chưa được gọi là Trùm.

Các đời Trùm phường rối, chỉ có đời cụ Nguyễn Văn Tân là mọi người gọi bằng Quản Tân. Cụ Quản Tân là ông nội anh Viên, cụ Tân không chỉ khéo tay đẽo rối, mà cụ còn chơi được nhiều loại nhạc cụ dân tộc khác nhau. Cái thời quân Pháp về làng bắt lính, cụ Tân không muốn bị chúng dồn đến nước phải đàn áp đồng bào mình; cụ đã bỏ tiền mua cái chức “quản” nhỏ nhoi trong làng, người ta gọi cụ Quản Tân là vì thế. Ông Trùm Dậu bây giờ là bác ruột của Viên, chính ông Dậu đã phát hiện cái tài hoa và cái duyên với nghề nơi người cháu ruột, thế là không còn canh cánh nỗi lo về lời nguyền “Đời nào mà để nghề rối thất truyền thì tuyệt tự”.

Anh gàn mê rối

Suốt những năm chiến tranh, phận rối nước cũng đâm ra loạn lạc, ao làng không còn những tích trò quen thuộc, nhiều người diễn rối phải bỏ đi bạt xứ. Ông Trùm Dậu bác anh cũng phải gánh gồng những quân rối xanh đỏ lang thang lên tít tận mảnh đất địa đầu tổ quốc - Hà Giang. Khi đã sang nửa cuối đời người, ông Trùm Dậu trở về quê với nỗi đau đáu của người con phường rối; và hơn thảy là bởi gánh nặng tìm người nối nghiệp đẽo rối. Khi gom tất cả đinh nam trong dòng họ lại để các cháu tìm hiểu về truyền thống trưởng phường của gia tộc, thấy đôi mắt cậu bé Viên lấp lánh, chăm chú mỗi lúc cầm quân rối trên tay; ông Dậu đã đinh ninh cậu bé này sẽ sớm thay ông đảm nhận nhiệm vụ trưởng phường. 

Những quân rối do anh Viên chế tác.

Năm Nguyễn Văn Viên vừa tốt nghiệp cấp 3, vẫn đang ấp ủ thực hiện giấc mơ tiếp tục học hành thì phường rối Chàng Sơn được Quỹ Thụy Ðiển - Việt Nam phát triển văn hóa (thường gọi là Quỹ Ford) tài trợ kinh phí tạo tác mới quân trò, phục dựng lại một số tiết mục cổ. Cái máu của con nhà nòi luôn trong huyết quản, nên Quỹ Ford giúp Việt Nam bảo tồn được không ít loại hình văn hóa nghệ thuật ấy đã khơi dậy ham mê của Viên. Mặc các bạn đồng lứa thi cử rồi đi học đại học, cao đẳng, rồi học những nghề được xem là hợp thời; Viên đăng ký tham gia lớp học của Quỹ Ford. Bạn bè bảo Viên là gàn, thời này là thời nào rồi mà còn đắm đuối với mấy quân rối nổi nênh. Người làng bảo: Thằng này có khi hâm.

Nghe mọi người nói vậy, Viên chỉ cười hiền hiền và lẳng lặng làm. Mãi sau này, khi chia sẻ với những người đến tìm hiểu về phường rối Chàng Sơn, anh mới tâm sự: ban đầu anh theo học chỉ đơn giản là vì quá… phục cha ông, tại sao các cụ lại có thể đẽo được những quân rối có hồn đến thế, sao lại diễn được những tích, những trò sinh động, lôi cuốn thế. Càng về sau anh càng thấy mình yêu thương và gắn bó với nó. 

Viên cởi mở, thân thiện, dám nghĩ dám làm, nói được làm được đúng chất trai làng; song cách nói chuyện của anh khá khúc chiết, diễn đạt mọi thứ bằng suy nghĩ của một người có tri thức. Anh bảo tiền bạc cũng quan trọng, nhưng biết thế nào là giàu bây giờ, cứ phải sống và làm cho thỏa được cái đam mê trước đã.

Mang trí tuệ vào từng quân rối

Chàng Sơn không điều khiển rối bằng sào mà bằng dây, vì thế mà quân rối có thể đi rất xa, dù bán kính thủy đình có rộng đến hàng chục mét - đó là điều khiến phường rối Chàng Sơn khác với hầu hết các phường rối khác. Song cũng vì thế mà tất cả đều đòi hỏi phải rất công phu, người điều khiển quân rối phải là người vừa có tài, vừa có duyên với nghề; ấy là còn chưa kể đến sự khéo léo, tính toán tỉ mỉ, khoa học sao cho mỗi cử động tay của người biểu diễn có thể tạo ra những chuyển động phức tạp của con rối. Điều đó đồng nghĩa, việc chế tác những quân rối của Chàng Sơn cũng đòi hỏi kỹ thuật chi tiết hơn, phức tạp hơn rất nhiều. Ấy vậy mà chàng trai 8X Nguyễn Văn Viên đã làm được.

Anh Viên đang thổi hồn vào khúc gỗ vô tri.

Cái tích “Dâng trầu mời khách”, cậu bé để tóc trái đào trèo cau hái quả cho bà têm trầu thì khắp đồng bằng Bắc Bộ, phường rối nào chẳng có. Nhưng từ trước đến giờ, ngay và với phường rối nước Chàng Sơn, cậu bé - quân rối chỉ trèo lên được ngọn cau rồi tụt xuống thôi, còn việc hái cau chỉ mang tính ước lệ. Vậy mà chàng trai Nguyễn Văn Viên đã làm được “sự lạ”. 

Khi quân rối do anh chế tác được đưa ra biểu diễn, cậu bé ba chỏm trèo lên ngọn, đưa tay với lấy buồng cau, buồng cau xanh rơi xuống, dưới đất (thực tế là mặt nước) bà cụ già móm mém, quần áo nâu sồng, chít khăn mỏ quả giơ tay đỡ trọn được cả buồng cau. Tất cả đều diễn ra trong sự trầm trồ của người xem, sự hò reo của đám trẻ. 

Rồi cái tích trò “Câu cá” nữa, trước đây cá được gắn sẵn vào đầu dây, hành động câu cá của quân rối chỉ đơn thuần mang tính tượng trưng. Thế nhưng cũng dưới bàn tay khéo léo của Viên, tích trò ấy bỗng sáng bừng và sinh động hơn bao giờ hết. Chú rối cá tự do thung thăng bơi lội, ngay sát khán giả; đến lúc chú cắn câu, chú vùng vẫy tung tóe nước, vít cong cả chiếc cần câu trong tay quân rối người đóng khố.

Để thổi được những nét tươi mới tưởng như đơn giản đó vào các tích trò truyền thống, Nguyễn Văn Viên đã gặp không ít khó khăn. Ban đầu anh vấp phải những suy nghĩ cố cựu của các bậc bô lão trong nghề, các cụ bảo cá gỗ mà bơi riêng rồi mới bị cắn câu, lại bị nhấc lên được thì đúng là truyện… cổ tích. Không một ai tin là Viên có thể làm được. Thế nhưng bằng tri thức và sức trẻ, bằng tình yêu và sự đam mê, Viên đã dần chinh phục được các cụ trong phường, và hơn cả là chinh phục được khán giả, kéo khán giả lại gần hơn với thủy đình, rối nước.

Hơn mười năm cần mẫn vừa hành nghề mộc để làm kế sinh nhai, vừa đăm đắm vào chế tác từng quân rối, mới có độ mươi “nhân vật” là Viên cảm thấy tạm ưng. Đứng trước những quân rối cổ đã sứt sẹo, mốc thếch, những kẻ “ngoại đạo” như chúng tôi thấy sao mà nó xấu xí; vậy mà anh cứ ngẩn ngơ: Trông thế thôi chứ với với mình, nó là báu vật vô giá đấy. Bây giờ kỹ thuật của mình tiên tiến, nhưng thực sự không thể nào tạo ra được những quân rối có hồn như các cụ được. Hình như, những quân rối ấy nó còn mang cả cái hồn của cả một thời đại…

Trước hình ảnh chàng trai trẻ mặc quần jean ngồi vần những khoanh gỗ; đôi tay tỉ mẩn với chàng, với đục để những nét sinh động của quân rối hiện ra; trước khuôn mặt vui tươi, sinh động và ngộ nghĩnh như… chú Tễu của Viên, tôi tin anh sẽ còn làm được rất nhiều cho nghề truyền thống của ông cha.

Quang Trí
.
.
.