Top 5 nguyên thủ tham nhũng

Thứ Ba, 16/05/2017, 18:00
Cuối năm 2016, cựu Tổng thống El Salvador Elias Antonio Saca cùng 6 nghi phạm khác đã bị bắt trong một vụ án mới nhất liên quan đến tệ nạn tham nhũng ở hàng nguyên thủ quốc gia. CSTC điểm qua những gương mặt nguyên thủ bị liệt vào danh sách top 5 nguyên thủ tham nhũng nhất lịch sử thế giới hiện đại.


Châm ngòi “Mùa xuân Arập”

Đứng vị trí thứ 5 trong số các nguyên thủ tham nhũng nhất thế giới gần đây là Zine al-Abidine Ben Ali, Tổng thống Tunisia từ năm 1987-2011. Dưới chính quyền Ben Ali, GDP của Tunisia tăng trung bình gần 5%/năm trong suốt 20 năm, với GDP đầu người tăng gấp 3 lần từ 1.201USD vào năm 1986 đến 3.786USD năm 2008. Vì vậy, năm 2009, một báo cáo của Boston Consulting Group đã liệt kê nước này vào danh sách những “sư tử” châu Phi.

Trong khi công cuộc cải cách Ben Ali giảm một nửa tỷ lệ nghèo của cả nước (từ 7,4% năm 1990 xuống khoảng 3,8% năm 2005), nó lại làm tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tạo ra những vùng nông thôn lạc hậu và thành thị nghèo nàn, gia tăng đàn áp khiến bất ổn ngày càng tăng cao. Đỉnh điểm là ngày 18-12-2010, khi Mohamed Bouazizi tự thiêu sau khi bị cảnh sát địa phương làm nhục. Điều này làm thổi bùng mùa xuân Arập, một làn sóng các cuộc biểu tình bùng nổ trên toàn đất nước, khiến chỉ trong vòng một tháng Ben Ali và vợ phải trốn khỏi đất nước. Từ chối trốn sang Pháp, Ben Ali được cung cấp nơi tị nạn ở Arập Xêút, và hiện đang sống ở Jeddah.

Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2015, gia đình và những người thân tín của ông Ben Ali bị cáo buộc tham ô ngân sách từ 1-2,6 tỷ USD trong vòng 7 năm. Có giai đoạn, những người thân cận của Ben Ali đã bòn rút tới 21% lợi nhuận của tất cả khu vực tư nhân ở Tunisia. Sau khi Ben Ali lưu vong, chính phủ đã tịch thu khoảng 13 tỷ USD tài sản từ 114 thành viên của phe cánh Ali Ben. Số tài sản này lớn hơn 1/4 GDP của Tunisia năm 2011.

Tổ quốc vinh danh

Vị trí thứ tư thuộc về Sani Abacha, Tổng thống Nigeria từ 1993 - 1998. Một năm sau khi nắm quyền, Abacha đã ban hành một nghị định đặt chính phủ của ông lên trên thẩm quyền của tòa án. Được hỗ trợ bởi Đội Hộ vệ đặc biệt (một lực lượng vũ trang từ 2.000-3.000 người làm việc tại dinh Tổng thống), Abacha đã thanh lọc quân đội, cấm các hoạt động chính trị và nắm quyền kiểm soát của báo chí. Mặc dù vi phạm nhân quyền kinh khủng, nhưng đứng trên góc độ kinh tế - 5 năm cầm quyền của Abacha là một phép lạ. Nợ nước ngoài đã giảm từ 36 tỷ USD còn 27 tỷ USD, dự trữ ngoại hối tăng từ 494 triệu USD lên 9,6 tỷ USD, và lạm phát giảm từ 54% xuống còn 8,5%.

Trong khi vẫn còn là bí ẩn, triều đại của Abacha kết thúc sớm khi ông qua đời vì một cơn đau tim vào ngày 8-6-1998. Trong 5 năm nắm quyền, Abacha và gia đình bị cáo buộc biển thủ từ 3-5 tỷ USD. Tháng 2-2014, 16 năm sau khi mất, Abacha được truy tặng giải thưởng Centenary như một phần của Lễ kỷ niệm 50 năm độc lập của Nigeria. Theo chính phủ, giải thưởng nhằm công nhận những "đóng góp to lớn cho sự phát triển của quốc gia" của Abacha.

“Big Man” châu Phi

Xếp vị trí thứ 3 là Mobutu Sese Seko, Tổng thống Zaire (nay là Cộng hòa Dân chủ Congo) từ 1965 - 1997. Là phiên bản gốc của “Big Man” châu Phi, Mobutu củng cố và giữ quyền lực bằng cách tạo ra một mạng lưới bảo trợ rộng lớn. Được xây dựng trên việc khai thác tài nguyên khoáng sản to lớn của đất nước, Mobutu sử dụng nó để làm vô hiệu hóa bất kỳ sự phản đối nào. Chính phủ của ông nổi tiếng với tham nhũng, quản lý yếu kém và bỏ bê trong nhiều năm, dẫn đến lạm phát phi mã (4.000% năm 1991), nợ nước ngoài khổng lồ và đồng nội tệ phá giá. Tiếp theo đó là tình trạng bất ổn dân sự.

Giữa tất cả những điều này, Mobutu cố gắng tích lũy một trong những tài sản cá nhân lớn nhất trên thế giới. Trong khi con số thực tế không ai biết, ông bị cáo buộc đã biển thủ 4-5 tỷ USD (tương đương nợ nước ngoài của quốc gia tại thời điểm nước này vỡ nợ quốc tế vào năm 1989). Mobutu đã từng chi tiền để thợ bánh ngọt hàng đầu thế giới Gaston Lenôtre, bay từ Paris đến tận dinh thự để mang bánh sinh nhật cho ông. Mặc dù không công khai nhưng tham nhũng rất có hệ thống dưới thời Mobutu.

Cuối cùng, Mobutu đã nhượng lại quyền lực tháng 5-1996, sau một cuộc nổi dậy do Laurent Kabila dẫn đầu. Chỉ trong 3 tuần, các cuộc nổi dậy đã biến thành một cuộc nổi loạn chính trị toàn diện. Mobutu chạy trốn sang Togo, rồi Morocco, nơi ông qua đời vì bệnh ung thư tuyến tiền liệt năm sau đó.

Xa hoa nhất châu Á

Ở vị trí số 2 là Ferdinand Marcos, Tổng thống Philippines từ 1965-1986. Trong suốt 21 năm ông cầm quyền, Philippines đã trở thành một trong những nước nợ nần nhiều nhất tại châu Á. Nợ nước ngoài tăng từ 360 triệu USD năm 1962 lên 28 tỷ USD năm 1986. Tiền lương đã giảm khoảng 1/3, và số người sống dưới mức nghèo khổ gần như tăng gấp đôi, từ 18 triệu lên 35 triệu người. Trong thời gian đó, Marcos bị cáo buộc đã biển thủ từ 5-10 tỷ USD.

Ferdinand Marcos, Tổng thống Philippines từ 1965-1986.

Kiểm kê tài sản còn lại tại Cung điện Malacanang ở Manila, người ta phát hiện hơn 1.000 đôi giày của Đệ nhất phu nhân, 888 túi xách, 71 cặp kính mát và 65 cây lọng. Khi đến Hoa Kỳ, đồ trang sức của họ đã bị Cục Hải quan thu giữ và trả lại cho Philippines, trị giá hơn 21 triệu USD. Những của cải này hiện đang được "triển lãm ảo" trong một chiến dịch chống tham nhũng trực tuyến. Chính phủ Philippines gần đây đã công bố kế hoạch bán đấu giá số tài sản trên.

Trong khi Imelda Marcos bị chứng minh có tội tham nhũng vào những năm 1990 và bị kết án tối thiểu 12 năm tù giam, bản án này đã bị hủy bỏ sau khi kháng cáo. Bà hiện đang là nghị sĩ của Hạ viện, trong khi con trai bà, Ferdinand Jr., là một thượng nghị sĩ. Con gái của bà, Imee, là Thống đốc của tỉnh Ilocos Norte.

Bậc thầy “điều hành tham nhũng”

Danh hiệu nguyên thủ tham nhũng nhất lịch sử hiện đại thuộc về Mohamed Suharto, Tổng thống Indonesia từ 1967-1998. Một lập trường chống Cộng mạnh mẽ đã giúp ông giành được hỗ trợ kinh tế và ngoại giao của phương Tây; trong khi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cũng như những cải thiện đáng kể về y tế, giáo dục và mức sống đã giúp ông được ủng hộ.

Mohamed Suharto, Tổng thống Indonesia từ 1967-1998.

Từ năm 1965 đến 1996, GNP bình quân Indonesia tăng đáng kể 6,7%/năm, với GDP đầu người tăng từ 806USD lên 4.114USD. Dù tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ giúp Suharto được đông đảo dân chúng ủng hộ trong giai đoạn những năm 1970-1980, nhưng cũng dẫn đến một sự mở rộng nhanh chóng của những gì người Indonesia gọi là KKN: Korupsi (tham nhũng), Kolusi (thông đồng) và Nepotisme (gia đình trị).

Sử dụng một hệ thống bảo trợ để đảm bảo sự trung thành, Suharto tích lũy tài sản từ 15-35 tỷ USD. Nhiều tổ chức/công ty phải thuê những người thân cận của Suharto như một cách duy nhất để giảm các “bất trắc” do tệ quan liêu. Đổi lại, “lại quả” được đóng cho hàng chục cơ sở giám sát của Suharto (yayasams). Các yayasams có vai trò như những ngân hàng cá nhân của Suharto. “Đóng góp” hàng triệu USD cho các yayasams đã trở thành một phần của chi phí kinh doanh ở Indonesia, với các tổ chức tài chính phải đóng góp 2,5% lợi nhuận mỗi năm. 

Theo Robert Elson, người viết tiểu sử của Suharto, đã nhận xét: "Tham nhũng được Suharto điều khiển như McDonald vận hành các cửa hàng. Ai cũng biết cần hối lộ bao nhiêu và phải trả cho ai. Suharto quản lý tham nhũng trên một quy mô mà chưa từng ai làm được".

Năm 1998, khủng hoảng tài chính châu Á đẩy Indonesia đến bờ vực của sự sụp đổ kinh tế. Điều này làm gia tăng bất bình trong dân chúng, dẫn đến bạo động và biểu tình buộc Suharto từ chức. Hai năm sau đó, ông bị buộc tội lạm dụng 550 triệu USD từ 7 tổ chức từ thiện và tạm thời bị quản thúc tại nhà.

Vĩnh Cẩm
.
.
.