Lời thú tội của một cựu linh mục đồng tính

Thứ Tư, 04/09/2013, 16:15

Andrés Gioeni, 41 tuổi, từng là một linh mục ở Mendoza, Argentina đã bỏ tấm áo thầy tu hơn hai năm về trước. Hiện Andrés Gioeni làm việc như một diễn viên, đạo diễn và viết kịch cho trẻ em. Ông sống cùng bạn trai Luis hơn chín năm tại Greater Buenos Aires San Isidro. Gần đây, Gioeni đã viết một bức thư gửi cho Giáo hoàng Francis qua Facebook kể về cuộc đời của chính mình và đề nghị Giáo hoàng giúp đỡ cộng đồng đồng tính.

Khát khao sống thật với chính mình

Như những đứa trẻ khác cùng trang lứa, tôi học tại một trường tiểu học. Tôi chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành linh mục. Gia đình tôi là người Công giáo nhưng không quá sùng đạo. Tôi tham gia một nhóm các nhà truyền giáo và tổ chức hoạt động tình nguyện trong khu phố nghèo ở Mendoza, cách Buenos Aires 1.1km. Tại thời điểm đó, tôi hẹn hò với một cô gái tên là Carmen. Chúng tôi đã có kế hoạch kết hôn và chuyển đến châu Phi để làm việc truyền giáo. Tuy nhiên, những người dân nói với tôi rằng, khu vực này rất cần một linh mục. Chính vì vậy, dù đã nghiên cứu để ghi danh theo học ngành y, tôi đã thay đổi quyết định và gia nhập chủng viện.

Khi tôi vào chủng viện, có tất cả 12 chủng sinh nhưng qua thời gian, sẽ chỉ có bốn người trụ lại ở những vòng lựa chọn cuối và tất nhiên, trong số đó, chỉ duy nhất một người trở thành linh mục. Tôi đã có tám năm ở chủng viện. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn vì tôi đã có một gia đình lớn ở đó. Nhưng khi tôi trở thành linh mục ở tuổi 27 thì mọi thứ trở nên vô cùng khó khăn. Tôi nhận ra rằng, cuộc sống không giản đơn và dễ dàng, tôi có trách nhiệm lớn với cộng đồng và với chính bản thân mình. Đó cũng là lúc tôi nhận ra những gì "không bình thường" đã xảy ra với mình, một cái gì đó có vẻ "không tự nhiên". Tôi đã lên án bản thân mình. Tại chủng viện, câu hỏi về đồng tính luyến ái chỉ được đề cập rất ít trong một số bài học. Đó là điều cấm kỵ trong cuộc sống hàng ngày.

Tôi mơ hồ nhận ra mình là người đồng tính khi còn học ở chủng viện nhưng đã ngay lập tức xóa bỏ những ý nghĩ đó. Mỗi khi cảm thấy "bị hấp dẫn" bởi một người nào đó, tôi sẽ kiềm chế và tự hỏi bản thân. Có hai chủng sinh khác đã bày tỏ sự quan tâm và muốn hẹn hò với tôi. Tôi đã nghĩ đây là hành động điên rồ, không thể chấp nhận và thẳng thừng từ chối lời đề nghị. Hai chủng sinh đã rời chủng viện, còn tôi ở lại. Cho đến khi trở thành một linh mục, tôi buộc phải thừa nhận rằng, tôi là người đồng tính.

Tôi thích nặc danh tham gia vào các cuộc trò chuyện đồng tính. Và sau mỗi lần chat trên mạng như vậy, tôi lại cảm thấy ăn năn, tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ làm điều đó nữa. Một ngày, tôi gặp mặt người đàn ông mà chúng tôi đã chat trong thời gian dài. Chúng tôi nói chuyện năm tiếng đồng hồ và tôi đã không nói một lời nào về những bí mật của riêng mình và cả việc tôi là một linh mục. Cuối cùng, chuyện gì đến cũng đã đến, chúng tôi đã quan hệ tình dục. Với tôi, đó là một trải nghiệm tuyệt vời. Nhưng ngay ngày hôm sau, tôi bắt đầu nghĩ rằng, tôi sẽ bị kết án vào địa ngục và cảm thấy như một tội nhân tồi tệ nhất trên thế giới. Tôi cầu nguyện và khóc rất nhiều. Tôi đi xưng tội.

Mong một cái nhìn cởi mở về cộng đồng đồng tính

Tôi chuyển đến Buenos Aires và bắt đầu một cuộc sống mới. Tôi đã làm rất nhiều công việc khác nhau để duy trì cuộc sống. Đầu tiên là chụp ảnh khỏa thân cho một tạp chí đồng tính rồi làm việc như một bồi bàn trong một hộp đêm đồng tính. Đây là thời điểm rất khó khăn đối với tôi. 30 năm cuộc đời với những gì đã trải qua - là người đồng tính - được coi là tội lỗi nghiêm trọng trong con mắt của Thiên Chúa.

Tôi tiếp tục tin tưởng vào Thiên Chúa, nhưng không phải là món quà của Giáo Hội, cũng không phải là những người lên án. Tôi rất vui mừng khi ông Bergoglio Francis trở thành Giáo hoàng. Ông là một người cởi mở và khi nghe tin ông trở về từ Rio de Janeiro, tôi nhận ra, đó là thời điểm để tôi viết thư cho ông. Tôi đăng một cái gì đó trên Facebook và qua những người bạn, bằng nhiều cách khác nhau, chuyển lá thư này tới tay Giáo hoàng.

Đây là một trong số những gì tôi đã viết: "Tôi đại diện cho phần lớn những người thuộc về cộng đồng đồng tính. Một cách đơn giản, khiêm tốn, tôi mong sự khuyến khích, thúc đẩy những nghiên cứu chiều sâu trong thần học luân lý tình dục về những người đồng tính. Tôi không mong Giáo hội có thể thay đổi giáo lý qua một đêm về chủ đề này nhưng đừng bêu xấu những nhà thần học và mục sư bất đồng chính kiến. Tôi không đề nghị Giáo hội chống lại quy luật của tự nhiên nhưng mong muốn sửa đổi và mở rộng khái niệm về tự nhiên. Tôi biết rằng, những thay đổi không thể diễn ra trong một ngày nhưng hy vọng rằng, 30 năm sau, những cậu bé có thể công khai tuyên bố mình là người đồng tính mà không phải lo sợ bất cứ điều gì

T. Phạm (tổng hợp)
.
.
.