10 năm sau Lehman Brothers, thế giới có an toàn? - Kỳ 1

Thứ Ba, 25/09/2018, 10:42
Đã 10 năm trôi qua kể từ khi Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư lớn thứ tư ở Mỹ bị sụp đổ (ngày 15-9-2008), mở đầu cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khắp toàn cầu. Với rất nhiều nỗ lực cải tạo và siết lại quản lý ngành tài chính và các lĩnh vực liên quan, liệu ngành tài chính thế giới đã an toàn hơn?


Ngân hàng Lehman Brothers phá sản đã để lại nhiều vết hằn, trong đó có khoản nợ khổng lồ gần 700 tỷ đô la. Hệ thống tài chính thế giới sụp đổ, kéo theo cỗ xe kinh tế toàn cầu.

Một phần công chúng Mỹ cho đến nay vẫn bị khủng hoảng năm 2008 ám ảnh. Ngành ngân hàng đã hồi phục và thịnh vượng hơn xưa. Nhưng các hoạt động tài chính của thế giới vẫn là "một chiếc hộp đen".

Hiện tượng "đổ giàn"

Với tài sản 639 tỷ USD và nợ 619 tỷ USD, hồ sơ khai phá sản của Lehman là công ty lớn nhất trong lịch sử, vì tài sản của công ty này vượt xa các công ty đã phá sản trước đây như WorldCom và Enron. Lehman là ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ vào thời điểm sụp đổ, với 25.000 nhân viên trên toàn thế giới.

Sự sụp đổ của Lehman cũng làm cho nó trở thành nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính thế chấp dưới chuẩn cho vay thế chấp ở Mỹ tràn vào các thị trường tài chính toàn cầu trong năm 2008. 

Sự sụp đổ của Lehman là một sự kiện quan trọng làm gia tăng cuộc khủng hoảng năm 2008 và góp phần gây xói mòn gần 10.000 tỷ đô la vốn hóa thị trường từ các thị trường chứng khoán toàn cầu vào tháng 10-2008, mức giảm hàng tháng lớn nhất vào thời điểm đó. 

Theo thẩm định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ phá sản, kéo theo 29 quốc gia vào cơn bão tiền tệ, từ Island đến Tây Ban Nha, từ Ailen đến Hy Lạp. Giới trong ngành nói tới một "trận đại hồng thủy". Chính quyền các quốc gia hai bên bờ Đại Tây Dương đưa ra những biện pháp cấp cứu với hàng ngàn tỷ đô la.

Tổng thống Mỹ George W. Bush và nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới kêu gọi người dân bình tĩnh nhưng vô phương. Trước hết là chứng khoán Mỹ đổ dốc, bước kế tiếp các ngân hàng hoảng sợ khóa van tín dụng dẫn tới hiện tượng khan hiếm tiền mặt. 

Hàng loạt các nhà xây dựng và công ty môi giới địa ốc mất khả năng thanh toán, phải sa thải nhân viên. Nhà đất tuột giá. Các hộ gia đình trước kia đi vay với lãi rẻ để mua nhà, nay không thể trả nợ đáo hạn. Vết dầu loang do hệ thống tài chính thế giới bị "nhiễm độc vì nợ khó đòi".

Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy tuyên bố, Nhà Nước đứng ra bảo đảm để người dân "không bị mất một xu". Tây Ban Nha, một quốc gia phát triển nhờ địa ốc cũng bị điêu đứng. Nhiều công trình xây dựng bị bỏ dở. Tăng trưởng toàn cầu năm 2007 đạt 4,2% rơi xuống còn 1,8% năm 2008 trước khi bị giảm thêm vào năm 2009.

Riêng tại Mỹ, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy vụ Ngân hàng Lehman Brothers vỡ nợ đẩy nền kinh tế số 1 thế giới vào suy thoái. 10.000 người mất nhà, 8 triệu người mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2009 lên tới 10%. Một sự kiện hãn hữu tại Mỹ: nhà nước phải can thiệp vào các hoạt động kinh tế, chẳng hạn như quốc hữu hóa một phần ngành công nghiệp xe hơi.

Bị FED “bỏ rơi”

Thời điểm 2007-2008, cơn bão tín dụng hoành hành khắp nước Mỹ không chỉ khiến mình Lehman Brothers lao đao, mà nhiều ngân hàng lớn khác cũng suy vi. Trong đó, nổi bật là Ngân hàng đầu tư Bear Stearns lớn thứ 5 Phố Wall, cũng bên bờ vực phá sản. 

Tuy nhiên, ngày 16-3-2008 Bear Stearns đã được FED và JP Morgan Chase đứng ra bảo lãnh cho những khoản nợ khổng lồ. Trước đó 2 ngày, FED cũng đã lên kế hoạch bơm vốn cho Bear Stearns thông qua JP Morgan Chase, đánh dấu lần đầu tiên FED ra tay hỗ trợ cho một tổ chức tài chính không phải là ngân hàng thương mại kể từ những năm 1960.

Những biện pháp can thiệp trên của FED được giới phân tích đánh giá là "hiếm" trong lịch sử của tổ chức này, thể hiện mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tín dụng mà nước Mỹ đang đối mặt. 

Song không dừng ở đó, cơn địa chấn tài chính thực sự bùng nổ vào ngày 7-9-2008 khi hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được chính phủ tiếp quản để tránh nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. 

Do khủng hoảng tài chính, ngân hàng đầu tư số 1 nước Mỹ là Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới AIG để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn.

Vấn đề đặt ra là tại sao FED cứu Ngân hàng Bear Stearns bằng cách cung cấp gần 30 tỷ USD cho JP Morgan để mua Bear; cứu Freddie Mac và Fannie Mae bằng cách tiếp quản trực tiếp; cứu AIG bằng việc tung ra 85 tỷ USD để mua 80% cổ phần. Tuy nhiên, FED đã không làm như vậy đối với Lehman Brothers, để BOA hoặc Barclays mua lại ngân hàng này. 

Thời điểm Lehman Brothers phá sản rất bất lợi vì Lehman và Bear có nhiều điểm tương đồng khi đều là ngân hàng đầu tư. Sau khi Bear bị mua lại, chính phủ đã có dịch vụ cho vay chiết khấu dựa trên tài sản đảm bảo nhằm cung cấp vốn cho ngân hàng đầu tư gặp khó khăn thanh khoản. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Lehman Brothers lại không phải là "cái chết" do thanh khoản nên đặc ân này chưa có cơ hội sử dụng.

Thời điểm bất lợi

Trong những năm dẫn đến khủng hoảng, giá dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Giá dầu đã gây sốc khi mở đầu năm 2008 bằng việc lần đầu tiên trong lịch sử chạm mốc 100 USD/thùng - mốc giá chưa từng có kể từ khi mặt hàng này được đưa vào giao dịch kỳ hạn tại thị trường New York vào năm 1983. Ngày 11-7-2008, giá dầu còn chạm mức lịch sử 147,27 USD mỗi thùng. 

Giá lương thực đắt đỏ đã tạo ra căng thẳng nghiêm trọng tại nhiều nơi, thậm chí ở cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Vấn nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia.

Theo thống kê của Chính phủ Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã mất 605.000 việc làm chỉ trong 8 tháng năm 2008, đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên 6,1%, mức cao nhất kể từ năm 2003. Trong 3 tháng, tính tới cuối tháng 9, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản, trong khi chỉ còn 2 tháng nữa cử tri Mỹ đi bỏ phiếu để bầu ra tổng thống mới thay ông George W. Bush mà tỷ lệ ủng hộ của người dân tụt xuống mức rất thấp do khủng hoảng.

Sự mất giá của các tài sản nhà đất cũng đẩy tỷ lệ nợ trên tài sản sở hữu của người tiêu dùng Mỹ lên cao, bắt buộc họ phải thắt chặt hầu bao. Trong khi đó, nền kinh tế thế giới phụ thuộc nặng vào sự tiêu dùng không bền vững của người dân Mỹ. Ba nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản và châu Âu đồng loạt suy thoái lần đầu tiên kể từ Thế chiến II, kinh tế toàn cầu giảm tốc mạnh.

Sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành tài chính Mỹ ở thời kỳ đỉnh điểm giữa tháng 9-2008 đã lan qua Đại Tây Dương, tới châu Âu, và gây ra những cơn “dư chấn” ở châu Á. Sau nỗi hoảng sợ của cả thế giới là trạng thái đóng băng tín dụng gần như trên phạm vi toàn cầu. Các ngân hàng trước kia dễ dãi trong việc cho vay bao nhiêu, thì tới nay, họ lại dè dặt bấy nhiêu. Tình trạng đóng băng tín dụng - vốn là “nguồn nhựa sống” của nền kinh tế - trở thành mối đe dọa lớn nhất của kinh tế thế giới.

Ngân hàng Lehman Brothers nguy kịch đúng lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cùng Merrill Lynch, Washington Mutual và AIG. Nếu cứu tất cả, Chính phủ Mỹ sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu là khuyến khích các tập đoàn tham gia thêm các hoạt động rủi ro. Chính phủ muốn khối tư nhân hiểu rằng cần phải tự giải quyết vấn đề của chính họ và cần phải có một sự hy sinh nào đó để thị trường hiểu được điều này.

Hơn nữa, thời điểm gần cuộc bầu cử ở Mỹ cũng rất nhạy cảm khi khủng hoảng tài chính trở thành đề tài tranh luận giữa hai ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa. Việc dùng tiền thuế của dân đi giải cứu các tập đoàn tài chính phải cần một lý do thuyết phục cao. Sự hy sinh lúc này có lẽ là điều cần thiết cho thị trường và cần phải lựa chọn để có chi phí thấp nhất cho xã hội.

Freddie Mac, Fannie Mae với tư cách là hai tập đoàn hoạt động được chính phủ bảo lãnh nhằm cung cấp tín dụng bất động sản cho người dân, do đó cả hai không thể chết. AIG là tập đoàn bảo hiểm lớn, cung cấp hàng triệu hợp đồng bảo hiểm cho người dân. Với số tài sản khổng lồ trên 1.000 tỷ USD, AIG có lẽ không phải là sự lựa chọn. Thay vào đó, sự lựa chọn tốt nhất của Chính phủ Mỹ là ép khối tư nhân phải tự cứu Lehman Brothers hoặc để ngân hàng này phá sản.

(còn tiếp)

Văn Cường
.
.
.