10 năm sau Lehman Brothers, thế giới có an toàn? - Kỳ 2

Thứ Tư, 17/10/2018, 09:53
Theo nhiều chuyên gia, dù một thập kỷ đã trôi qua, nhưng nền tài chính thế giới vẫn còn nhiều điểm yếu. Những điểm yếu đó như những “ngân hàng Lehman mới”, có thể kéo đổ nền kinh tế toàn cầu trong nay mai.


Chỉ là vấn đề thời gian

Với những “Lehman mới” đang nổi lên ngày càng nhiều, Ngân hàng JPMorgan Chase & Co. tin rằng vấn đề không phải có cuộc khủng hoảng tiếp theo hay không, mà là khi nào nó xảy ra.

Trong cuộc phỏng vấn với tờ Guardian tại nhà riêng ở Scotland ngày 13-9, cựu Thủ tướng Anh Gordon Brown đã phân tích về những vấn đề lớn của năm 2009 vẫn chưa được giải quyết và nói rằng hành động khó khăn hơn là cần phải ngăn chặn những hành vi sai trái của các chủ ngân hàng. 

Cựu Thủ tướng Anh, người đã lãnh đạo xứ sở sương mù trong cuộc suy thoái dài và sâu nhất của Anh thời hậu chiến, cho biết điều ông lo lắng là phạm vi giảm lãi suất ít hơn so với một thập niên trước; không có bằng chứng nào cho thấy các bộ Tài chính sẽ được phép cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu công; và không đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ tích cực trong việc cung cấp các gói kích thích.

“Sự hợp tác đã được nhìn thấy trong năm 2008 sẽ không thể xảy ra trong một cuộc khủng hoảng hậu 2018 cả đối với Ngân hàng trung ương lẫn chính phủ”, ông Brown nói. Trong cuộc khủng hoảng tiếp theo, sự chia rẽ niềm tin trong lĩnh vực tài chính sẽ được phản ánh bằng sự chia rẽ niềm tin giữa các chính phủ. Trong bối cảnh chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, ông Brown nghi ngờ khả năng hợp tác giải quyết khủng hoảng của Bắc Kinh.

Trước đó, hồi tháng 5, nhà đầu cơ huyền thoại - tỷ phú George Soros - từng dự báo "một cuộc khủng hoảng tài chính lớn" nữa có thể sắp xảy đến với thế giới. Phát biểu tại Hội đồng Đối ngoại châu Âu tại Paris ngày 29-5, ông Soros nói tư tưởng bài EU gia tăng, Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran, đồng USD tăng giá mạnh, và việc các nhà đầu tư rút vốn khỏi các thị trường mới nổi đang là những vấn đề gây sức ép lên nền kinh tế toàn cầu. "Chúng ta có thể đang tiến tới một cuộc khủng hoảng tài chính lớn nữa", ông Soros nói.
Tỷ phú George Soros.

"Ông trùm" đầu cơ cũng nhấn mạnh rằng sự gia tăng của chủ nghĩa dân túy ở châu Âu là một vấn đề lớn. "EU đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng sống còn. Tất cả mọi thứ có thể đi lệch hướng đều đã đi lệch hướng", ông Soros phát biểu. 

Theo vị tỷ phú, từ năm 2008, các chương trình thắt lưng buộc bụng của EU đã góp phần dẫn tới cuộc khủng hoảng hiện nay của khối sử dụng đồng tiền chung Eurozone. Chương trình này là nguyên nhân khiến các phong trào bài EU gia tăng, một phần dẫn tới Brexit và cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở Italia.

Người giàu nhất thế giới, ông vua phần mềm Bill Gates hồi tháng 3 cũng tin rằng trong tương lai gần Mỹ “chắc chắn” sẽ có một cuộc khủng hoảng tương tự như trong năm 2008. “Vâng, thật khó để nói khi nào nhưng chắc chắn cuộc khủng hoảng này sẽ xảy ra”, ông Bill Gates viết. Ông Gates cho biết người bạn của ông, người sáng lập Berkshire Hathaway, tỷ phú Warren Buffett, đã “nói về điều này và ông ấy hiểu khu vực này tốt hơn nhiều so với tôi”.

Những “tử huyệt”

Những bất ổn về địa chính trị và kinh tế đang khiến nhiều đồng nội tệ mới nổi lao dốc. Tính đến cuối tháng 9, đồng peso của Argentina lao dốc 12%, buộc Ngân hàng trung ương nước này phải tiến hành một bước đi cực kỳ mạo hiểm: tăng lãi suất 60%. Điều này theo sau một sự sụt giảm của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ, do đang bị mắc kẹt trong một cuộc chiến chính trị với Mỹ. Ấn Độ cũng góp vào sự bất ổn của thị trường sau khi đồng nội tệ rupee giảm xuống mức thấp kỷ lục so với USD, giảm hơn 11% kể từ đầu năm. Cũng ở châu Á là đồng rupiah của Indonesia đạt mức thấp nhất trong 3 năm sau một loạt trận động đất đáng sợ trong suốt tháng 8 đã phá hủy Lombok và láng giềng Bali.

Phát biểu về sự lao dốc của đồng lira, rupee và peso, một nhà phân tích của DBS nói: “Ba loại tiền tệ này đã phải vật lộn với việc tăng lãi suất của Mỹ kể từ đầu năm do thiếu hụt thặng dư tài khoản vãng lai. Với căng thẳng thương mại tăng cao đe dọa bùng nổ thành một cuộc chiến thương mại toàn diện, khu vực này đang cảnh giác về dòng vốn có thể dẫn đến bất ổn tài chính, đặc biệt là ở các nước có mức nợ nước ngoài cao".

Một điều đáng lo ngại khác là những nguy cơ tiềm ẩn ở nền kinh tế số 2 thế giới - Trung Quốc. Cuộc chiến thương mại với Mỹ hiện nay đang khiến nền kinh tế lao đao, các chỉ số chứng khoán lao dốc, trong khi đồng NDT mất giá. Theo báo cáo được Chính phủ Trung Quốc công bố ngày 14-8, sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ tháng 7 của nước này tăng trưởng lần lượt là 6% và 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư tài sản cố định tăng trưởng 5,5% trong 7 tháng đầu năm, mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1999. Từ tháng 4 đến nay, đồng NDT đã mất giá khoảng 8% so với đồng USD.

Trong khi đó, có vẻ như thế giới vẫn chưa học được nhiều từ cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua trong việc quản lý nợ. 

Theo ông Vitor Gasper, Giám đốc Các vấn đề tài chính của IMF, nợ toàn cầu đang trên đà đạt mức cao mới trong năm nay. Năm 2016, nợ toàn cầu đã đạt mức kỷ lục 225% tổng tài sản thế giới, theo Cơ sở dữ liệu nợ toàn cầu của IMF, theo dõi 190 quốc gia từ năm 1950 đến nay. Con số đó đo lường nợ của các công ty, chính phủ và cá nhân. 

"Nợ toàn cầu là rất cao" - ông Gasper nói - "Con số cụ thể là 164.000 tỷ USD (năm 2016)”. Tuy nhiên, trong báo cáo vào tháng 7 năm nay, Viện Tài chính quốc tế (IIF) cho biết tổng số nợ toàn cầu đã chạm mức 247.000 tỷ USD, tương đương 318% GDP của tất cả các nước.

Đáng quan ngại nhất là Trung Quốc, theo IIF, trong 4 quý tính đến quý I-2018, tổng nợ ở Trung Quốc tăng khoảng 2.000 tỷ USD lên hơn 32.700 tỷ USD. Tổng nợ của Trung Quốc đã đạt khoảng 258% GDP năm 2016 so với 158% năm 2005. 

Quả bom nợ tại các khu vực khác cũng cực kỳ đáng sợ. Chẳng hạn, theo số liệu hồi tháng 2-2018 của Eurostat, 28 nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU) có tổng nợ nần đạt 12.500 tỷ EUR. 

Trải qua nhiều năm cố gắng thắt lưng buộc bụng và cải cách kinh tế, Liên minh châu Âu hiện nay vẫn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ mà Hy Lạp đã khai mào. 

Theo số liệu của Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat), tính đến tháng 2-2017, tổng cộng có 5 quốc gia châu Âu có nợ lớn hơn sản lượng kinh tế của họ, và 21 quốc gia có nợ lớn hơn giới hạn 60% GDP được quy định trong Hiệp ước Maastricht.

Mỹ - nền kinh tế số 1 thế giới, cũng không khá hơn. Theo đồng hồ nợ công của Mỹ, tính đến nay nợ quốc gia của xứ cờ hoa đã hơn 21.352 tỷ USD. Đây là con số lớn hơn tổng GDP của Mỹ hàng năm. 

Và với số nợ này, riêng năm tài chính 2018, Mỹ đã phải trả khoản tiền lãi lên tới 315 tỷ USD. Con số này lớn hơn GDP của Việt Nam và tương đương tổng GDP của nhiều nền kinh tế cỡ trung bình, như Colombia hay Philippines. 

Chi phí lãi vay được dự đoán sẽ tăng từ 315 tỷ USD năm 2018 lên 914 tỷ USD vào năm 2028. Trong thập kỷ tới, lãi suất sẽ lên đến gần 7.000 tỷ USD. Đến năm 2026, lãi suất sẽ trở thành hạng mục ngân sách lớn thứ ba.

Văn Cường
.
.
.