Cuộc đời ngắn ngủi của cố vấn Trần Đình Long - thành viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội trong Cách mạng Tháng 8

Thứ Sáu, 12/10/2012, 12:01
Vừa đúng 100 ngày kể từ 19/8/1945, sống và làm việc cho chính quyền dân chủ, nhân dân, Trần Đình Long đã ra đi. Nhưng chỉ 100 ngày ngắn ngủi ấy, với tài năng của một trí thức cách mạng ông đã làm được bao nhiêu việc cho chính quyền mới. Theo tư liệu về lớp học ở Quảng Châu do Hồ Chí Minh tổ chức, Trần Đình Long cùng tham dự học tập với các ông Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Phạm Văn Đồng…

Mỗi năm khi tháng 8 đến, tôi lại bồi hồi nhớ tới Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 vĩ đại cùng những con người cụ thể trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. Họ là ai? Họ là: Chủ tịch Nguyễn Khang (1919-1976); là Trần Quang Huy (1922-1995), Nguyễn Duy Thân (1917-1952), Nguyễn Quyết (1922), Lê Trọng Nghĩa (1922) cùng cố vấn Trần Đình Long (1904-1945). Trong số đó cho đến hôm nay chỉ còn lại 2 ông Nguyễn Quyết và Lê Trọng Nghĩa, họ cũng đã qua tuổi 90. Trong những người này, có lẽ để lại nhiều nuối tiếc nhất là cố vấn Trần Đình Long. Sau Cách mạng Tháng 8 chưa đầy 100 ngày, cố vấn Trần Đình Long – người mà theo một số tư liệu lịch sử khẳng định là “một trong những ứng cử viên cho chức Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Hồ Chí Minh” đã bị một nhóm quân Tàu – Tưởng bắt cóc và thủ tiêu, đến giờ vẫn chưa tìm thấy hài cốt.

Người thanh niên trí thức yêu nước theo cách mạng

Cách đây 7 năm, đúng vào dịp 19/8/2005, hân hạnh được tháp tùng Đại tá Lê Trọng Nghĩa ra Hà Nội dự giao lưu trực tuyến đêm 17/8/2005 trên VTV1 với chủ đề “60 năm: Những thông điệp từ quá khứ”. Cũng dịp này, tôi nhận được những thông tin quý báu về gia đình ông Trần Đình Long. Ngay chiều chủ nhật 21/8/2005 vừa vào đến TP HCM, tôi đã đến thăm gia đình chị Trần Thị Phong, con gái lão đồng chí Trần Đình Long, tại quận Bình Thạnh. Những kỉ niệm về cha được sống lại trong chị Phong…

Cả cuộc đời vì dân vì nước vì dân, Ông sinh ngày 1/3/1904 tại làng Đồng Dụ, xã Tiến Thắng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Gia đình có xưởng sản xuất đồ gỗ tại phố Hàng Mâm, TP Nam Định. Học xong Thành chung, Ông vào làm thư ký tại Nhà máy Dệt Nam Định. Năm 1925, Trần Đình Long sang làm thợ ảnh tại Campuchia, ở đây ông được giác ngộ cách mạng.Tháng 6/1926, ông trở về Mỹ Tho, Nam Kỳ, tham gia tuyên truyền cách mạng.

Tháng 11 năm đó, anh trai Trần Đình Lượng lo tiền cho ông sang Paris học đại học. Tại đây, ông tham gia phong trào công nhân của Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1928, ông được giới thiệu sang học tại Trường Đại học Phương Đông (Matxcơva). Trong khóa học 1928-1931, Trần Đình Long có tên tiếng Nga là Pe-vơ-nê-er, mang số thẻ học viên 4433, cùng khoa với 9 sinh viên Việt Nam. Nhân kỉ niệm Khởi nghĩa Yên Bái năm 1931, ông cùng sinh viên Việt dàn dựng vở kịch ca ngợi tinh thần yêu nước.

Tốt nghiệp đại học, ông trở về Pháp rồi lên tàu về Việt Nam. Khi tàu vừa cập cảng  Sài Gòn, ông bị mật thám Pháp bắt, sau đó bị giải về Bắc Kỳ và giam 4 tháng vì “tội vượt biên trái phép sang Nga”. Nhưng vì không có chứng cứ, chúng phải trả tự do. Ông ở lại Hà Nội và bắt liên lạc với Đảng.

Thời gian này, ông kết hôn với một cô gái Hà Nội tên Phương. Hai vợ chồng thuê lại cửa hàng kinh doanh sách báo tiến bộ nước ngoài tại 26 phố chợ Đồng Xuân để sinh sống. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thế Rục, Đặng Xuân Khu, Vân Đình, Đặng Thai Mai, Hải Triều..., ông tích cực tham gia hoạt động báo chí của Xứ ủy Bắc Kỳ một cách công khai. Ông viết bài cho các báo Le travail (Lao động), Ressemblement! (Tập hợp), En avant (Tiến lên), Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Tin tức, Đời nay, làm chủ nhiệm báo Khỏe (chưa ra được số nào thì đã bị cấm), quản lý báo Thời Thế đến tháng 2/1938 thì lại bị cấm tiếp.

Ngoài hoạt động cách mạng, Trần Đình  Long  còn viết nhiều tác phẩm báo chí, phóng sự, ký sự, truyện ngắn cùng một số bài hát và một số vở kịch (khi bị tù ở Sơn La).Trong thời kì làm báo ông đã viết thiên ký sự “Ba năm ở nước Nga Xôviết” giới thiệu về cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân Liên Xô; phóng sự dài kỳ “Một cuộc điều tra muối” nói lên nỗi khổ của người dân làm muối vùng biển Văn Lý, Hải Hậu và truyện ngắn “Một đêm u ám” phản ánh tâm trạng người trí thức trẻ được giác ngộ, bước vào con đường hoạt động cách mạng, bị kẻ địch giam cầm, tra tấn nhưng vẫn vững tâm tiếp tục lý tưởng đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Tháng 8/1939, khi vào Thanh Hóa phát hành báo, ông bị chính quyền bắt lần hai vì tội "đi cổ động nhân dân chống thuế". Giam giữ được một thời gian, ông lại được thả tự do vì không tìm ra chứng cứ. Năm 1940, chính quyền Pháp lại bắt Trần Đình Long lần thứ ba vì tội danh "cộng tác với báo chí cộng sản và cổ động dân chúng chống lại chính phủ bảo hộ". Ông bị giam tại nhà tù Sơn La, cùng với Trần Huy Liệu, Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng, Xuân Thủy, Xích Điểu...

Trong thời gian ở tù, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm kịch nói, cải lương, tuồng chèo và lập cả “Gánh hát phiêu lưu” của tù chính trị. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, chi uỷ Đảng Cộng sản ngục Sơn La đấu tranh với giám ngục Pháp đòi giải phóng. Về đến Hà Nội, Trần Đình Long liên lạc ngay với Xứ uỷ Bắc kỳ.

Kỷ niệm về những ngày Tổng Khởi nghĩa

Chiều 15/8/1945, có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, 2 Thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang và Trần Tử Bình quyết định cho thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Hội, gồm 5 người do ông Khang là chủ tịch và ông Trần Đình Long là cố vấn.

Ông Lê Trọng Nghĩa sôi nổi kể lạichuyện xưa như đang sống trong cuộc: “Hầu hết anh em trong Ủy ban khởi nghĩa đều là học sinh, sinh viên, tuổi đời mới ngoài 20. Riêng anh Trần Tử Bình và anh Trần Đình Long già dặn và từng trải. Lại từng học đại học cộng sản ở nước Nga Xô viết mà anh Long có đầy đủ kiến thức để làm cố vấn. Anh Bình là Thường vụ Xứ ủy, trực cơ quan Xứ ủy ở Vạn Phúc, Hà Đông và phụ trách 10 tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nhưng luôn theo sát tình hình Hà Nội.

Khâm sai đại thần Phan Kế Toại bắn tin muốn gặp Việt Minh. Ngay hôm 16/8, anh Khang cùng tôi và anh Long vào gặp cụ để thương thuyết, bàn giao chính quyền cho Việt Minh. Cuộc họp bất thành. Đêm ngày 17/8, dù chưa nhận được lệnh của Trung ương (ngày ấy không có phương tiện thông tin liên lạc như bây giờ, toàn Z.T. (giao thông chạy bộ) nhưng dựa vào chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Thường vụ đã ra quyết định tiến hành Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào sáng 19/8. Ngày 18/8, Ủy ban chuyển hẳn vào 101 Gambetta (101 Trần Hưng Đạo). Trong các cuộc họp, anh Long luôn đưa ra những ý kiến sắc bén để đối phó với các tình huống”.

Sau khi cướp được Phủ Khâm sai, Bộ chỉ huy tối cao Việt Minh ở Phủ nhận được tin: đụng độ ở Trại Bảo an binh (trên đường Hàng Bài) giữa cánh quân của ông Nguyễn Quyết với quân Nhật có thể dẫn tới đổ máu. Ông Nghĩa được giao nhiệm vụ phi xe Limousin cắm cờ đỏ sao vàng ra thương lượng. Quân Nhật bị thuyết phục, chịu lui nhưng yêu cầu “phe nổi loạn” phải gặp chỉ huy tối cao của họ.

Chiều 19/8, Thường vụ và Ủy ban Quân sự cách mạng giao nhiệm vụ cho ông Lê Trọng Nghĩa và ông Long phải gặp được Toàn quyền Nhật ở Đông Dương Tsuchihashi. Trước khi đi, ông Long dặn đi dặn lại: “Khi vào hang cọp, không được nói năng động chạm đến việc phát xít Nhật đã bại trận hay bom nguyên tử đã nổ ở Hiroshima”. Lúc đã vào bên trong phòng khánh tiết, thấy trên tường có treo lá cờ trắng với hình mặt trời đỏ to tướng; sĩ quan Nhật đứng vòng quanh, gươm súng đầy mình, dù đã thua trận nhưng mặt ai cũng đằng đằng khí thế “võ sĩ đạo”, làm 2 anh em chợt lo âu vì vào hang hùm không mảnh sắt trên tay. Được giới thiệu là đại diện của “nhóm dân chúng nổi loạn Hà Nội chiếm Dinh Khâm sai trưa nay”, ông Nghĩa bình tĩnh, nói: “Nghe tin Thiên hoàng đã cho phép các ông rút lực lượng của mình khỏi Đông Dương trong ít ngày nữa…”. Vừa nghe đến 2 chữ “Thiên hoàng”, thấy thái độ của cánh sĩ quan thay đổi hẳn. Sau đó, họ “chấp nhận chính quyền mới” của Việt Minh và nhắc: dân chúng không được bạo động…

Ông Nghĩa tâm đắc: “Kỷ niệm này sống mãi trong tôi, làm tôi luôn nhớ đến một Trần Đình Long đầy bản lĩnh, sáng suốt, luôn dựa vào tình hình thực tế để đưa ra những quyết sách đúng đắn trên cương vị của một cố vấn”.

Sau ngày cách mạng thành công, Trần Đình Long được Đảng giao nhiệm vụ làm “đặc phái viên ngoại giao” cho Hồ Chủ tịch cùng Bùi Lâm, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Đức Thụy. Cuối tháng 11/1945, ông đi cùng đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng xuống Kiến An giải quyết tranh chấp giữa lực lượng của họ với anh em Vệ quốc đoàn. Trần Đình Long đã giải quyết một cách rất khôn khéo, dựa vào sách lược của Đảng, tránh được xung đột vũ trang. Xong việc, ông trở về Hà Nội vào chiều 24/11/1945.

Mối tình đẹp của cố vấn Trần Đình Long

Chị Phong bồi hồi nhớ lại: “Bố tôi làm báo, còn mẹ thuê căn nhà ở phố Chợ Đồng Xuân bán sách báo… Có một câu chuyện khá thú vị, khi cưới nhau hai ông bà hẹn thề sẽ sinh hai đứa con lấy tên theo lối chơi chữ lồng ngược nhau. Bố mẹ là Long-Phương thì con sẽ là Phong-Lương”. Năm 1938, ông bà có cô con gái đầu đặt tên là Phong.

Thời kì ông bị đày lên Sơn La, không sợ nơi rừng thiêng nước độc, bà Phương đã thuê người trèo đèo lội suối, dẫn lên thăm chồng với nguyện vọng có đứa con trai để nối dõi tông đường. Bà mua sẵn muối, đường phên, thuốc lào, diêm, thuốc tây… để biếu bà con dân tộc. Bà con dựng cho bà một cái lán ở bản Hẹo. Sáng sáng, ông Long theo đoàn tù nhân vào rừng chặt củi. Lính coi ngục được đút lót đã cho ông ở lại bản Hẹo cả ngày. Cảm phục tấm lòng của bà, anh em tù chính trị chặt cố thêm một xuất củi cho ông. Chiều đến, ông Long lại nhập vào đoàn tù. Cứ như thế cho đến ngày bà có mang.

Thời gian sau, ông nhận được thư từ Hà Nội báo tin bà đã sinh con trai nhưng chưa đặt tên. Đây là một tin vui trong anh em tù chính trị Sơn La. Anh em bàn đặt tên cháu là Cậu ấm Hẹo, ghi nhớ địa danh bản Hẹo nơi hai ông bà đã có cậu con trai. (Cậu ấm Hẹo, Trần Đình Lương, sau này được bà Phương mang theo đi Sài Gòn rồi di cư sang Australia. Anh là giáo viên dạy tiếng Việt cho bà con Việt kiều ở Sydney, Australia).

Chị Phong kể: “Bố tôi yêu thương vợ con lắm. Cứ xong công việc là ông về ngay nhà để vui đùa với con cái. Ngoài tôi và em Lương, mẹ tôi lúc này đang có bầu em Thiện. Hôm đó khi bố tôi trở về nhà và lên gác được một lúc thì thấy có chiếc xe Jeep chạy ào tới, phanh kít trước cửa nhà. Từ trên xe nhảy xuống 5-6 người, mặc binh phục Tàu - Tưởng. Họ vào nhà, gí súng vào bụng mẹ tôi, dọa: “Gọi ông Long xuống đây, nếu không sẽ bắn!”. Thương em đang trong bụng, mẹ tôi buộc phải gọi bố xuống. Từ trên gác xuống chưa kịp phản ứng, chúng xông đến bẻ quặt tay ông, giải ra xe. Mẹ tôi ngất đi.

Ngay sau đó báo chí tiến bộ kêu gọi Việt Nam Quốc dân Đảng trả lại tự do cho ông, nhưng vô hiệu”. Ông Nguyễn Văn Phúc, Ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh Yên Bái, cũng bị bắt cóc. Vợ của ông Phúc đến gặp Nguyễn Hải Thần và được ông ta đưa đến gặp Vũ Hồng Khanh để xin thả chồng mình. Vũ Hồng Khanh từ chối và lỡ buột miệng "Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là". Ông Trần Đình Long mất tích từ ngày đó.

Vừa đúng 100 ngày kể từ 19/8/1945, sống và làm việc cho chính quyền dân chủ, nhân dân, Trần Đình Long đã ra đi. Nhưng chỉ 100 ngày ngắn ngủi ấy, với tài năng của một trí thức cách mạng ông đã làm được bao nhiêu việc cho chính quyền mới. Theo tư liệu về lớp học ở Quảng Châu do Hồ Chí Minh tổ chức, Trần Đình Long cùng tham dự học tập với các ông Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Phạm Văn Đồng…

Còn theo nhà sử học Nga A.Xô-cô-lốp: “Trần Đình Long được xem là ứng cử viên Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Hồ Chí Minh 1946”. Vậy mà đã 67 năm! Tiếc rằng, cho đến giờ vẫn chưa biết ông được an nghỉ nơi đâu?! Thậm chí ông chưa có một tấm huân chương. Đó cũng là nghĩa vụ của người đang sống!

Trần Kiến Quốc
.
.
.