Khát khao được trở về cố hương của người con lai Ma-rốc

Thứ Sáu, 01/08/2014, 07:30

Nhiều người nhìn thấy chị vẫn trầm trồ khen chị đẹp, nhưng cũng không thiếu những người buông lời dè bỉu, nói chị là "đồ con lai". Đã bước qua cái ngưỡng bên kia của cuộc đời nhưng chị không có nổi một túp lều của riêng mình. Sống kiếp ở trọ, nay đây mai đó, làm đủ thứ nghề: nhặt rác, bán bánh mì, vặt lông gà, lông vịt… chỉ cốt dành dụm tiền để một lần được trở về nơi gốc phần. Khát vọng của chị là những năm tháng cuối đời sẽ được sống ở quê cha. Chị là Habiba Nguyễn Thị Xuân - người con lai Ma-rốc.

Hành trang cuộc đời là nước mắt

Hơn 50 năm góp mặt trong cuộc đời này, hình như chưa một phút giây nào chị Xuân được hạnh phúc. Chị luôn có cảm giác ông trời đã đày đọa chị, bắt chị phải sống cuộc sống vừa vất vả, vừa tủi hổ, đắng cay. Ngay cả cái sự "có mặt" của chị cũng không phải xuất phát từ tình yêu mà nó là sự tính toán của cả cha và mẹ chị. Cha chị là người Ma-rốc, tham chiến ở Việt Nam trong vai trò của một người lính lê dương. Tên ông là Mohamet Ben sét xa.

Nhưng ông sớm giác ngộ ra rằng, cuộc chiến tranh mà ông đang tham gia chính là một cuộc xâm lược. Sau khi ngộ được điều đó, ông đã quay đầu trở thành người lính Cụ Hồ. Chính vì thế, sau đó ông được đưa về Nông trường Việt Phi ở Ba Vì, lao động và sản xuất. Mẹ chị khi ấy là  con sen cho một nhà giàu có ở Cầu Diễn, bà tên là Nguyễn Thị Tuệ (76 tuổi).

Vì ngoan ngoãn, chăm chỉ nên bà Tuệ rất được lòng chủ. Chính ông bà chủ sau này đã mai mối cho bà Tuệ có cơ hội gặp Mohamet. Nghe người ta nói, lính Tây lương cao lắm nên chả cần biết có yêu hay không, chỉ biết rằng bà Tuệ thực sự muốn thoát khỏi cảnh nghèo khó, cam chịu của một con sen. Mohamet đang tuổi thanh niên, nói trắng phớ ra thì ông cũng cần một nơi để "giải tỏa", để khỏa lấp nỗi cô đơn vì phải xa quê hương, xa người thân tới nửa vòng trái đất.

Bà Xuân kể lại cuộc đời cơ cực khi mang danh phận con lai của mình.

Vậy là trai tơ gặp gái tơ bỗng chốc nên vợ nên chồng, có cưới hỏi đàng hoàng, cho dù một tiếng chào nhau họ cũng không nói được. Bà Tuệ đang từ thân phận một con sen, sau một cái gật đầu thành vợ của lính Tây. Chàng lính lê dương đang sống đời độc thân, vậy mà chỉ trong phút chốc lại có vợ xinh đẹp. Cả hai đều cảm thấy rất mãn nguyện với sự tính toán của mình.

Cưới nhau chưa đầy năm, bà Tuệ sinh con gái đầu lòng. Bà đặt tên con theo tiếng Việt là Nguyễn Thị Xuân còn chồng bà lại đặt tên cho con theo tiếng Ma-rốc là Mohamet Habiba. Vậy là người con lai cùng lúc có hai giấy khai sinh và hai tên gọi.

Trong ký ức của mình, chị Xuân gần như không còn lưu lại được hình ảnh nào về người cha Ma-rốc. Bởi khi mới một tuổi, cha của chị đã ngã xuống suối trong một lần uống rượu say khật khưỡng trở về nông trường. Sau này, mộ phần của ông được chôn ở đâu không ai còn biết nữa, vì đã có quá nhiều thay đổi ở Nông trường Việt - Phi.

Chồng mất khi tuổi đời còn quá trẻ, hơn nữa lương lính Tây cũng không còn, một mình ôm con nơi đất khách quê người, bà Tuệ đành gá nghĩa với một vài lính Tây sau này. Dù gì thì bà cũng có chỗ để dựa, có tiền mà nuôi thân, nuôi con.

Tấm hộ chiếu sang Ma-rốc của bà Xuân.

Năm 1968, Mỹ ném bom Hà Nội, những người lính lê dương "hàng Việt cộng" cùng vợ con của họ được di chuyển lên Yên Bái để tránh bom rơi đạn lạc. Cô bé Xuân cũng lẽo đẽo theo mẹ lên đó. Năm 1970, những người lính lê dương cuối cùng được hồi hương. Tiếc rằng những người mà mẹ chị Xuân gá nghĩa về sau đều đã chết nên chị và mẹ của mình đã chẳng thể có suất mà hồi hương. Mẹ con chị bỗng dưng trở thành những kẻ vô gia cư, rồi sau người ta gom mẹ con chị vào Trại Tự Lập ở Phú Thọ. Đó là nơi chứa chấp toàn những kẻ lang thang, đĩ điếm, tù tội. Xót cháu ngoại bé bỏng lại phải sống trong môi trường ô tạp quá nên bà ngoại chị đã vào trại đón chị về nuôi.

Bảy tuổi, cô bé Xuân về ở với người dì ruột. "Mang tiếng là ở với dì nhưng thân phận của tôi nào khác một tiểu ô sin. Mới bảy tuổi mà đã phải trông mấy đứa em con của dì. Làm hết việc này đến việc khác chả mấy khi được ngơi tay" - bà Xuân nhớ lại.

Đến khi các con của dì lập gia đình hết lượt thì cũng là lúc chị Xuân xuất giá. Chồng của chị là một người đàn ông ngang tàng, ngỗ ngược. Cũng giống như mẹ mình, chị Xuân cũng chỉ muốn thoát cảnh bần hàn nên gật đầu làm đám cưới. Cưới nhau chưa được bao lâu thì anh ta bị bắt đi tù vì tội hành hung người khác. Ra tù chớp nhoáng thì lại công khai có bồ nhí. Chịu không nổi, chị Xuân ôm đứa con thơ ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Chị thuê một gian phòng trọ nhỏ rồi đi nhặt phế liệu, đi bán bánh mì, nhặt lông gà lông vịt thuê lấy tiền nuôi con.

Sau lần đứt gánh ấy, chị lại chấp nhận lấy một ông thương binh cụt chân làm chồng. Sự hi sinh này lại một lần nữa không đem lại tương lai và hạnh phúc cho chị. Gia đình chồng ghét cái xuất thân con lai, ghét cả cái tiếng đã qua một lần đò của chị nên hắt hủi, ruồng rẫy. Chồng chị vì nghe bố mẹ cũng hùa theo. Lại một lần nữa chị ra đi với hai bàn tay trắng. Đứa con gái mà chị có với người chồng sau bị họ giữ lại, đoạn tuyệt tình mẫu tử. Chị lại trở về cuộc sống lang thang, làm bất kể việc gì miễn có tiền để sinh sống.

30 năm nhặt rác, vay tiền mua vé máy bay tìm quê cha

Chị Xuân đẹp, một vẻ đẹp rất Tây, vừa có chút kiêu sa vừa vương nét buồn thăm thẳm. Trong suốt cuộc trò chuyện dài, chị khóc nhiều hơn nói. Vì kể đến đoạn nào trong phần đời đã qua, với chị cũng chỉ toàn cay đắng mà thôi. Chị Xuân bảo, không ai hiểu được tâm trạng của một người con lai. Sống nơi đây nhưng chị luôn nghĩ rằng đó chỉ là sống tạm. Ma-rốc mới là gốc gác, là cố hương của chị. Mang thân phận của một con lai, mang hình hài chẳng có điểm gì giống với những người xung quanh nên chị luôn bị soi, bị dè bỉu. Có người ác miệng, thấy cuộc đời chị phải chịu nhiều tủi nhục đã kết luận rằng "đời cha ăn mặn đời con khát nước". Thế nhưng họ nào có hiểu, chị đâu có tội lỗi gì. Tội chăng là tội của chiến tranh. Chiến tranh lúc nó diễn ra đã gây biết bao mất mát, đau thương cho những người trong cuộc. Đến khi nó kết thúc rồi thì để lại những tàn dư, những chứng nhân như chị.

Hình ảnh đoàn tụ của anh em bà Xuân.

Cả đời chị Xuân phải sống cảnh thuê nhà, nay đây mai đó. Thế nên khi đứa con trai lấy vợ nó đã phải ở rể, mãi trên tận Thái Nguyên. Chị kể: "Mới hôm qua thôi vợ chồng chúng nó cho con về thăm tôi. Thấy nhà cửa mưa gió, dột nước lênh láng khắp nhà, chúng nó bảo hay là mẹ lên ở với chúng con. Vẫn biết chúng nó thương mẹ nhưng làm thế sao được. Con mình đã ở rể mình mặt mũi nào mà lên đó ăn bám nữa. Nhục lắm. Tôi bảo với các con là cứ yên tâm, mẹ còn sức khỏe còn lo được cho mình. Đến khi nào mẹ phải nằm một chỗ thì các con mới phải lo".

Trong cái tủ kính nho nhỏ, chị long trọng đặt tấm hình hồi chị đi Ma-rốc chụp cùng "người nhà". Trong chuyến đi có thể sẽ thay đổi cuộc đời mình, chị Xuân đã cẩn thận mang cả chiếc răng chị bị gãy cách đó mấy năm để nếu cần làm xét nghiệp ADN. Để chuẩn bị cho chuyến đi ấy, chị đã phải làm đủ thứ nghề để tích cóp. Nhưng sống ở cái đất phồn hoa đô thị, tiền kiếm thì khó, chi phí lại quá đỗi đắt đỏ, nào là tiền ăn, tiền thuê nhà, tiền điện nước này nọ chị nào có ky cóp được bao nhiêu. Nhưng khát khao được một lần về chốn gốc phần cứ lớn lên mãi không thôi. Chị đánh bạo hỏi vay bà hàng xóm tốt bụng 30 triệu đồng, cộng với số tiền mình tiết kiệm được trong suốt ba mươi năm để mua vé máy bay lên đường hồi hương.

Sang đó chị được gặp nhiều người, có những người đã nhận chị là người thân của họ. Họ hàng của bố chị ở Ma-rốc, theo chị Xuân là còn khá đông. Họ gật gù nói người đàn ông trong tấm hình đang bế một đứa trẻ (đứa trẻ là chị - PV) chính là người thân của họ. Có nhà báo Ma-rốc đã đến tận nơi phỏng vấn chị, rồi còn quay phim, chụp ảnh chị để đăng tải trên báo. Chị cứ ngỡ con đường hồi hương của mình đang thênh thang phía trước. Nhưng không, mọi thứ vẫn giậm chân tại chỗ dù rằng biết bao thủ tục đã làm, biết bao lá đơn đã được gửi tới nhà vua Ma-rốc thì nay, ước nguyện được sống những năm tháng cuối đời nơi quê cha đất tổ của chị Xuân vẫn còn diệu vợi. Lý do thì nhiều lắm.

Chỉ xót cho người phụ nữ đẹp nhưng quá đỗi truân chuyên. 53 tuổi nhưng chưa từng một lần được ở trong chính ngôi nhà của mình, cả đời lúc nào cũng chỉ ao ước có một chỗ để chui ra chui vào. Trong khi số tiền chị vay nợ để trang trải lộ phí hồi hương thì không biết khi nào mới trả xong? Nên chăng khi Chính phủ Ma-rốc chưa có những chính sách hỗ trợ nào cụ thể với chị Xuân và những người con lai như chị thì chính quyền sở tại nên có sự hỗ trợ nào đó giúp đỡ để họ bước qua mặc cảm, được sống trong điều kiện tốt nhất có thể trước khi có may mắn được hồi hương?

Ngọc Anh
.
.
.