Khúc ngẫu hứng trong bản trường ca Tết Tày

Thứ Bảy, 21/01/2012, 14:16

Nói về Tết Tày ư? Có lẽ tôi sẽ hát cả ngày mà không thể nào kể hết về nó. Sở dĩ tôi dùng chữ hát, bởi Tết Tày là một bản đại trường ca xanh rờn đã đi cùng năm tháng. Tết Tày sống mãi với thời gian và người dân xứ này. Tết người Tày đã có từ thời hòn đá biết đứng, hòn đất biết ngồi. Bản trường ca Tết Tày có nhiều chương đoạn. Mỗi chương đoạn đều gắn số phận một con người cụ thể đằm mình trong Tết...

Mặt người. Mặt cây. Vũ trụ

Hãy nhìn vào gương mặt người ở đây thì biết. Chúng ta sẽ cảm nhận được ngay niềm hoan hỷ đón Tết hiện lên từng đôi mắt như thế nào. Những đôi mắt không chỉ biết cười, biết lo toan, biết buồn vui, mà còn biết mơ màng. Ấy là những khi lên giường nằm ôm chăn mắt còn lơ mơ nghĩ về Tết. Từ khi sinh ra, mắt đã là cửa sổ của tâm hồn con người.

Còn nữa. Hãy nhìn vào gương mặt cây. Cây như người tỏa ra mùi sắp Tết. Thân thể chúng đang căng tràn nhựa sống. Sự sống từ rễ cây truyền lên chồi, lên búp, thành hoa. Đời cây không ngủ như người. Cây bận rộn quanh năm suốt tháng. Cây biết phận mình rề rà chậm chạp, nên nó dồn hết tâm lực chăm lo cho Tết, bằng hương thơm ngào ngạt và sắc màu đào hoa mênh mang.

Nhưng trước hết phải nói về con người. Nếu không có con người, chắc chắn không có Tết. Con người là tác giả làm ra Tết. Một năm mười hai tháng, mỗi tháng người ta nghĩ ra một cái Tết nho nhỏ để cho con cháu nhớ về mùa. Nhưng Tết Nguyên đán là thời khắc quan trọng nhất của một năm. Và nó đã trở thành tinh hoa văn hóa Tết khởi đầu của năm. Nguyên đán là cái Tết to nhất trong năm.

Kế đến là vũ trụ trong không gian bao la. Ai cũng biết, vòng quay của quả đất vẫn thế này thôi, từ Đông sang Tây. Nó lừ lừ trôi đi như một quả bí đỏ. Hàng ty tỷ năm cũ kỹ như thế rồi, hết nắng là đến mưa. Hết ngày nóng ấm đến đêm mưa tuyết lạnh lùng. Hết trưa oi nồng đến chiều mát mẻ. Không có gì thay đổi cả. Vạn vật và muôn loài đều tự nhiên sinh ra, tự nhiên lớn lên và tự nhiên rơi rụng mất mát dần đi. Rồi lại tự nhiên sinh ra, lớn lên... vô cùng vô tận. Theo quan niệm của đạo Phật, đấy là kiếp luân hồi.

Tết của người Tày hầu như không mấy khác lạ, so với Tết của nhiều dân tộc anh em. Nghĩa là chỉ xảy ra trong cùng một thời điểm nhất định. Đêm Ba mươi tháng Chạp là đêm Giao thừa. Cuộc bàn giao trang nghiêm giữa ông Trời và bà Đất. Đó là lời chào năm cũ. Năm cũ như bà già lặng lẽ đội nón ra đi. Và năm mới như chàng trai rò rè giương ô đang tới. Mùng Một tháng Giêng là ngày đầu năm mới. Người Kinh gọi Nguyên đán. Người Tày gọi Nèn chiêng. Tết Tày cũng bày biện các lễ vật hương hoa đèn nến, cũng mâm ngũ quả, cũng các loại bánh mặn ngọt, rượu trà... thờ cúng gia tiên.

Thác Bản Giốc, Cao Bằng.

Kể từ đêm Ba mươi, mọi người đều tắm gội thơm tho sạch sẽ, ăn mặc tươm tất, trang trọng lịch sự, đón chào năm mới. Vẻ mặt ai ai cũng tươi cười, tay bắt mặt mừng, chúc tụng cầu mong cho nhau khỏe mạnh slổng làu chau ké (sống lâu muôn tuổi). Bất kể trẻ già, trai gái cũng tự giác kiêng kị và tránh làm những điều xấu xa. Nếu ai làm điều xằng bậy, thì cả năm sẽ gặp những điều xúi quẩy, không may mắn.

Có lẽ trong mỗi một milimet khối giữa không trung, đều có các vị thần linh lơ lửng trông coi. Họ âm thầm đứng ngồi hoặc đang bay quan sát. Ngay từ những ngày đầu đời, những đứa trẻ người Tày đã được ông bà, cha mẹ dạy bảo phải sống sao cho đẹp, sau này trở thành người tử tế. Người xưa đã nói rằng đầu xuôi thì đuôi lọt. Sống đẹp ngay từ đầu năm, hẳn cả ba trăm sáu nhăm ngày sẽ tràn đầy hạnh phúc.

Hát nhỏ về món ngon ngày Tết

Bây giờ nói về cái ăn. Người Tày gọi là kin nèn. Giống như người Kinh nói ăn Tết. Trong tiếng Tày: Kin là ăn, nèn là Tết. Còn có nơi gọi  kin chiêng. Có cùng một nghĩa là ăn Tết mà thôi.

Con người nói chung, bất kể dân tộc nào trên mặt đất này hình như đều coi trọng sự ăn. Ở ta, cái ăn tham gia vào bất cứ xó xỉnh, góc khuất nào của tâm hồn con người, đâu đâu cũng thấy ăn. Làm cũng ăn. Làm ăn. Nói cũng ăn. Ăn nói. Ngủ cũng ăn. Ăn ngủ. Đi cũng ăn. Ăn đi. Ông ăn chả bà ăn nem. Ăn sung mặc sướng. Ăn nhằm gì. Ăn cắp. Ăn trộm. Ăn cướp. Ăn gian. Chơi ô ăn quan... Ngày nay, người ta còn  bổ sung thằng này "ăn" xi măng. Con kia "ăn" sắt thép. Ông nọ "ăn" phong bì.  Bà kia "ăn" công trình. Lão ấy "ăn" của đút. "Ăn" dự án. "Ăn" giải thưởng... Nghĩa là cái ăn bao trùm lên tất cả điều tốt lẫn thói xấu.

Người Tày chúng tôi cũng vậy. Nhưng xem ra cái sự ăn của họ còn cụ thể, thiết thực và sinh động hơn nhiều so với các dân tộc khác. Người Tày chào nhau bằng sự ăn. Chứ không chỉ chào anh, chào cô, chào thầy, chào bạn như người Kinh; Ní hảo như người Trung Quốc; Hello như người Anh; An nhơn ha xe do như người Hàn Quốc; Sờ rát sờ vu chia như người Nga; Bông dua như người Pháp; Sa wa ti kha như người Thái Lan... mỗi khi gặp mặt. Người Tày chào nhau bằng: Lan kin lèng xằng? (Cháu ăn sáng chưa?), Bác kin ngài xằng? (Bác ăn trưa chưa?), Dả kin pjầu xằng? (Bà ăn tối chưa?)...

Từ xa xưa, người Tày ấn định những câu như thế là lời chào hỏi những người gặp mặt, dù thân hay sơ. Chào hỏi bạn ăn gì chưa, tỏ ra mình là người lịch sự. Chào ăn gì chưa, nghĩa là mình đã hướng quả tim đến cái dạ dày của người khác. Nghĩa là tôi đang quan tâm đến sức khỏe, đến sự sống còn của người khác. Cái lý muôn đời của người Tày ăn vào để sống, chứ không phải sống để ăn. Ăn vào để có sức lao động sáng tạo. Sống để chia sẻ với mọi người. Sống để ôm ấp yêu thương nhau chứ không phải lườm nguýt, đố kị. Chữ sống cao hơn chữ ăn. Hãy sống đã, rồi mới viết. Hãy sống đã, rồi muốn làm gì thì làm. Rõ ràng chữ sống ở đây không phải chỉ nói động tác hít vào và thở ra, phồng lên xẹp xuống. Sống là để hiến dâng tài năng và sức lực của mình cho đồng loại. Kiểu chào đó đã trở thành một thái độ ứng xử rất riêng biệt của người Tày.

Năm nào cũng vậy, để chuẩn bị cho Tết Nguyên đán, hầu như mỗi gia đình người Tày nào cũng đều tự mình chăn nuôi một chú lợn Tết. Ít khi phải ra chợ mua lợn. Thường là một con mu ót (lợn ỉ) hay mu sláy (lợn bột). Hai giống lợn này tuy nhỏ con nhưng giòn chắc và ngọt thịt. Bởi nó chuyên sản sinh nhiều nạc mà lại ít mỡ. Trung bình mỗi con chỉ vài chục cân, chưa đến tạ. Thịt với xương vừa đủ chế biến thức ăn mặn cho cả nhà. Tôi dùng chữ nhà ở đây là chỉ ba bốn thế hệ, ông bà, cha mẹ, con cháu... tứ đại đồng đường. Và một phần thịt dùng để tiếp khách. Số còn lại, thái miếng to, dày, dài hết cỡ, đem ướp muối kèm gia vị, treo lên gác bếp, ăn dần. Người Tày gọi nựa lảp. Chắc người phương Tây cũng gọi là thịt hun khói.

Thịt hun khói ắt phải có mùi củi lửa. Khi người ta đốt củi lên, khói hun lâu ngày tạo thành muội than bao quanh nó như ruồi. Những con ruồi than to bằng hạt đỗ đen. Chúng bâu bám chặt tạo thành một lớp màng bao bọc lấy thịt. Và nhờ vào những lớp màng này, thịt để lâu mà không bị ôi thiu, các loại vi khuẩn chẳng thể nào xâm nhập vào thịt được. Củi lửa là một phần quan trọng trong đời sống người Tày. Và người Tày gọi lửa bằng pỏ (bố). Bố lửa chỉ đứng sau mẻ nặm (mẹ nước) và mẻ khẩu (mẹ gạo).

Thịt hun khói lủng lẳng như mướp, như bầu bí dưới gác bếp. Tuy treo thịt cả ngày lẫn đêm mà không có một con mèo, con chó, con chuột nào dám chồm lên kéo thịt xuống ăn vụng. Bởi thịt hun khói hấp thụ đắng cay chua chát từ trong không khí. Nó tạo ra một thứ mùi vị cực kỳ khó chịu. Nhưng khi ta rửa sạch bằng nước gạo, chế biến xong, nó lại trở thành một món ăn thơm ngon đến mức như thần kỳ.  

Cũng có nơi người ta ướp thịt trong hém (mẻ chua). Ướp kiểu này không những để được lâu, mà còn giữ được màu sắc thịt hồng hào tươi ngon, lúc nào cũng như mới. Thậm chí họ còn ướp nguyên cả một cái thủ, vài cái chân giò. Khi vớt lên, hình như chúng vẫn còn ngáp và đạp ngoạp ngoạp. Kiểu làm này chỉ thấy ở những  gia đình phú nông địa chủ giàu có. Thịt cá nhiều đến nỗi đổ đi không hết. Họ bèn ướp vài chum cá, với mấy chum thịt. Lâu lâu buồn mồm nhớ tới, họ bèn bới thịt cá ra chế biến thành các món ăn cho mới miệng.

Phúng xàng - món ăn tinh hoa

Ở quê tôi, đặc biệt có món phúng xàng (lạp xường) ngon nổi tiếng xưa nay. Người ta chọn lấy một đoạn lòng non, ngắn dài tùy sở thích và yêu cầu của gia đình. Sau khi làm lòng sạch, người ta thái nhỏ, băm nhuyễn các loại thịt bạc nhạc, ba chỉ, thịt mỡ, thịt nạc... rồi đem tẩm ướp gia vị. Không thể thiếu gừng tươi, rượu trắng, tỏi khô. Đặc biệt phải có món huyết lình. Những thứ gia vị hỗn hợp này làm cho thịt lúc nào cũng tươi thơm như vừa mới mổ. Làm xong, họ lập tức nhồi thịt vào trong một đoạn lòng, rồi treo lên phơi sương phơi gió. Phơi sao cho thịt hiu hiu mát mẻ từ ngày qua đêm. Thịt hí hóp thở ngay dưới hiên nhà và trước mặt mình. Khi nào thấy săn, bóng mượt như bôi dầu luyn, thì nhớ mang chúng vào trong buồng the. Lạp xường còn hút thêm hơi thở và tiếng nói thầm thì  từ con người nữa, có như thế mới hoàn tất công đoạn sơ chế ban đầu.

Có thể nói phúng xàng là món ăn tinh hoa. Nó tụ khí từ thiên nhiên và cơ thể sống con người. Bởi thế món phúng xàng ngon nức tiếng là có căn cứ. Khi ta đem phơi, âm dương giao hòa cùng với tâm hồn người. Món ăn này không những tạo ra nguồn bổ dưỡng trực tiếp mà còn làm lạ miệng với từng người cụ thể. Cắn một miếng phúng xàng nghĩa là bạn đang nuốt hồn thiêng sông núi vào bụng. Hãy lắng nghe trong cơ thể của bạn, có tiếng suối êm đềm chảy, có tiếng gió véo von reo ca, có tiếng vượn hú gọi bạn tình. Song thiên nhiên không ở lại lâu trong người bạn đâu. Đừng sợ. Thiên nhiên sẽ nhè nhẹ thoát ra theo đường thở của bạn. Xin bạn hãy thử một lần trong đời để biết. Bạn hít nó vào thật sâu. Bạn nén nó lại lâu lâu thêm chút nữa. Rồi hãy chầm chậm thở ra. Làm như thế, bạn đang tự hòa tan bản thân mình vào thiên nhiên rồi đấy.

Bánh Khảo người Tày, Phúng xàngmón ăn tinh hoa của người Tày.

Người xưa nghĩ ra món phúng xàng chính là thức ăn để dự phòng cơ nhỡ. Làng bản heo hút cách xa phố chợ, không tiện đường mua bán. Nhất là những khi trong nhà có khách đột xuất, cần đến là có cái nhắm ngay. Phúng xàng có thể để lâu tới ba, bốn tháng hoặc nửa năm nó vẫn chưa hỏng. Khi dùng, người ta đem phúng xàng cắt khúc thành những đoạn ngắn, đưa lên miệng nồi cơm hấp chín. Đây là cách làm truyền thống cực kỳ đơn giản, nhưng hiệu quả khá cao, vì nó vẫn giữ được mùi vị thơm đặc trưng và nước cốt.

Cũng có thể xắt mỏng ra thành nhiều lát, xào với dưa chua, khế xanh, tỏi ta, hay măng ớt, hoặc túm lá mác mật. Thậm chí ngày nay có nhiều người đem vào lò vi sóng nướng chín, ăn nhanh. Nhưng đúng cách nhất vẫn là ăn phúng xàng kèm với bánh chưng, hoặc xôi mới đồ xong còn nóng môi bỏng lưỡi. Ăn như thế mới gọi là người sành điệu. Ngày thường, cũng có người ăn phúng xàng với bánh bao, bánh mì. Ngon tới mức đê mê quên luôn tên họ và quê hương bản quán.

Phúng xàng chứa vị mặn là chủ yếu. Vì thế tôi khuyên các bạn nên ăn cầm chừng. Người Tày gọi kiểu ăn này là nhắm nhí. Vừa ăn vừa lơ mơ ngẫm nghĩ xem, bạn sẽ thấy có đủ năm mùi và năm vị. Chúng sẽ ngấm dần dần, ngấm từ từ qua các kẽ chân răng. Mùi vị mệt mỏi mọc lên sống mũi như hoa đang mở cánh. Rồi hương vị phúng xàng bò loang lên trán, nó tỏa ra sống lưng, chạy đến tứ chi. Kể cả móng chân móng tay cùng đua nhau dậm dịch nhịch nhạch. Đặc biệt cái mùi hương huyết lình không thể lẫn vào đâu được. Nó cứ miên man thơm. Nó ngấu nghiến thơm như da thịt người vợ trẻ mới cưới. Theo dân gian người Tày, huyết lình thuộc hàng dược liệu quý hiếm, nó giúp con người ta cải lão hoàn đồng. Hoặc dùng làm thuốc cường dương bất nhược. Nên họ phải cất công tìm kiếm ở tận những nơi rừng sâu núi cao. Quê hương của loài khỉ. Bởi huyết lình chính là máu khỉ.

Đến tuổi trưởng thành, khỉ cái cũng giống như các em thiếu nữ, lần đầu tiên trong đời thấy có hành kinh. Những giọt phồn sinh tinh khiết của tạo hóa, rơi từ cửa mình ra, quý giá hơn vàng ngọc. Chúng để lâu ngày, tích tụ lại thành từng hạt cứng như đá, thơm như mùi lá bằng hương. Loài khỉ vun ngọc lại thành đống. Theo chu kỳ từng tháng và từng con, đống huyết lình cứ to dần và chúng coi đó như một thứ linh vật. Không bao giờ chúng dám bước chân qua và đụng tay đến. Muốn lấy được huyết lình, người thợ săn phải ăn nằm ém nhẹm ở ngoài cửa hang, có khi mất cả tuần. Đợi mấy bố mẹ con nhà khỉ đi kiếm ăn, người thợ săn mới lò dò bò vào hang vội vàng hốt lấy. Xong xuôi, anh ta phải để lại vài hạt làm mồi lấy lộc.

Chính vì vậy, huyết lình không có bày bán rộng rãi như các loại hàng hóa thông thường ở ngoài phố chợ. Ai muốn có vài phân huyết lình về dùng hoặc làm quà, phải đặt trước với người thợ săn cả tháng. Và thường chỉ xảy ra vào mùa thu.

Màu xanh vắng bóng trên mâm cơm mùng 1 Tết

Trên mâm cơm ngày Tết bày ra toàn thịt là thịt. Nào thịt luộc. Thịt xào. Thịt om than nghiến. Thịt nấu đông. Thịt hầm xương ống. Thịt úp bát nằm khau. Đến cả canh xin thang thịt ba chỉ, cũng không được gia giảm thêm dù mấy lát gừng thái chỉ. Đã là loài thảo mộc, cấm.

Tại sao trong mâm cơm vào ngày mùng Một Tết, không hề có một cọng rau xanh? Người ta thường nói cơm rau chứ mấy ai nói cơm thịt. Nhất là ở thành phố, giờ này còn mấy ai ăn thịt, ngoại trừ những người bán mồ hôi mua cơ bắp. Một bữa cơm không có rau xanh. Đó là điều có thật. Đến bây giờ vẫn thế. Cho dù rau trồng đầy tràn trong vườn nhà, mùa nào thức ấy, quanh năm chả thiếu giống nào. Chỉ cần bước chân xuống vườn làm một ôm mang về xào hay luộc tùy thích. Nhưng không. Không một ai ăn rau trong ngày mùng Một Tết. Nhìn thấy rau, sao người ta lại sợ.

Tôi là gã lực điền nông dân toàn tòng, chuyên nghề cày ruộng cấy lúa, trồng màu. Suốt đời chỉ ăn rau ăn cỏ, mà trưa nay sao lại kiêng kị rau xanh vậy cà? Thật oái oăm lạ lùng làm sao.

Hồi còn chú tôi, ông giải thích thế này. Trong bữa ăn ngày đầu năm mới, nếu nhà  mày ăn rau, thì cả năm ruộng vườn sẽ rậm rạp toàn loài cỏ hoang dại. Cỏ mọc tốt tươi sẽ chèn ép lúa má, cây ngô, cây đậu. Cái màu xanh xập xí xập ngàu nhập nhằng giữa lúa và cỏ dại, cứ đằng thẳng hiện ra trên người mình. Nó sẽ ám ảnh mãi trong đầu. Hình ảnh cái xấu xa sẽ lấn lướt cái tốt đẹp cháu ạ.

Màu xanh non tơ ấy làm nên tội tình gì? Nó đã đánh lừa con mắt thật thà người nông dân chân lấm tay bùn. Bởi thế chú tôi quan niệm, sự lừa dối không thể đồng hành cùng thật thà. Kẻ tiểu nhân không cho đứng cùng hàng với người quân tử. Cái ác không bao giờ được song hành cùng cái thiện. Đó cũng là một cách ứng xử có phần cực đoan đáng yêu của chú tôi.

Và thế là mẹ tôi sẵn lòng căm thù loài cỏ ăn tàn phá hại. Cỏ đã làm cho cả cánh đồng lúa đang xanh tốt bỗng ngả sang màu vàng, thân lúa còi cọc, lá lúa ngẳng nghiu, hồn lúa ngơ ngác. Vì thế, trong bữa ăn ấm cúng của gia đình ngày đầu năm mới, không thể cho rau xanh xuất hiện được. Ăn rau vào người, cỏ sẽ làm loạn cả cánh đồng nhà mình.

Nhất là cỏ lồng vực, đích thị nó là kẻ thù số một của dân cày. Cái giống cỏ y trang một trăm phần trăm cây lúa, không khác dáng hình cây lúa hiền lành. Chỉ phân biệt được chính tà khi chúng trổ bông. Cỏ thì hạt nâu đen và tròn đều. Còn thóc thì vàng ruộm, sắc nhọn hai đầu như mũi đinh đóng cột. Người nông dân quê tôi ghét cay ghét đắng giống cỏ lồng vực, bởi không dùng nó được bất cứ cho việc gì. Bà con ta phải nhổ đi bằng sạch, nếu không, nó ăn hết phần màu mỡ mà người nông dân vất vả bao ngày đêm tưới tắm chăm bón.

Bánh trái, cặp mía tím và những vị thần mộng mơ

Tôi nói đến đâu rồi nhỉ. À bây giờ đến bánh sấm. Người Tày gọi bánh lăng gòong. Thực ra đó là bánh chưng được gói theo hình lưng gù. Gần giống bánh tét trong Nam bộ. Nhưng bánh to gấp năm, mười lần bánh thường. Nói một cách hoành tráng hoa mỹ, đó là bánh nửa vầng trăng.

Nhưng tại sao gọi bánh sấm? Ngày xưa bà nội tôi bảo bánh này dùng để cúng thần sấm. Vị thần ấy bao đời nay đem lại sự may mắn, bằng những trận mưa rào. Mưa thuận gió hòa là mơ ước bao đời của người làm ruộng. Thần sấm thần mưa cho đổ nước xuống đồng, dân có cơ hội cày bừa cấy hái. Vạn vật trên mặt đất này đều lấy nước làm khởi đầu. Thủy vi tài sơn vi quý. Nước là đơn vị nhất bảng. Không có nước tất cả sẽ chết khô chết héo và lụi tàn. Vạn vật và người sẽ chấm dứt sự sống. Vì thế, bà con ta phải thức đợi cả mùa xuân, đến hôm nào ông giời trở mình, bỗng có tiếng sấm chớp vang rền bốn cõi, các mẹ các bà mới đem bánh ra luộc lại. Luộc xong, bánh hãy còn nghi ngút khói, mới đem bày cúng thần sấm ở trên sàn phơi thóc. Thánh thần chỉ ăn hương ăn hoa. Cúng xong ba ngày, các con cháu trong nhà mới được bóc bánh ra ăn.

Nhớ lại hồi xưa, có hai thứ mà tôi sợ nhất. Đó là sấm sét và bà Dả Dzỉn. Vậy bà Dả Dzỉn là ai? Đến tận cuối đời, nhưng không một người nào biết tường tận hình dáng thân thể bà như thế nào. Song, cứ nhắc đến tên bà Dả Dzỉn, đứa trẻ người Tày nào cũng sợ. Bọn chúng mới chỉ được nghe người già kể lại. Bà Dả Dzỉn là người không có tuổi. Bà ấy không chồng không con, sống một mình như con dao cùn. Bà thường mặc toàn đồ nhàu nát rách rưới, lôi thôi và người bà cực kỳ hôi hám. Tóc bà buông xuống như rễ cây si già. Mắt trắng dã lồi to như quả trứng ngỗng. Miệng bà đen ngòm và chỉ còn mỗi chiếc răng nanh dài và nhọn. Rốn bà tròn như cái niêu đất. Trên người bà mọc đầy lờm xờm lông lá. Bà thường ngồi vắt vẻo trên cành cây sung um tùm. Nhưng hễ có tiếng trẻ con nào khóc hay hờn dỗi, là bà Dả Dzỉn lẻn xuống cắp nách mang về trời.

Bà Dả Dzỉn chả bao giờ ăn uống ngủ nghỉ, nhưng vẫn sống khỏe re. Cả đời bà làm mỗi một công việc: trông coi canh chừng cho trẻ con, đừng cho ma quỷ đến chọc sàn quấy phá, ăn cắp giấc ngủ của trẻ.

Đấy. Công lao của bà Dả Dzỉn to chứ chẳng thường chút nào. Để trả công ơn cho bà, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, nhà nào cũng phải sắm một cặp mía tím làm gậy để cho bà lên mường trời. Cặp mía tím ấy phải đủ cả gốc rễ lẫn ngọn. Chủ nhà trang trọng đặt nó bên cạnh nơi bàn thờ tổ tiên.

Đúng đêm Giao thừa, đợi cho mọi người ngủ say, bà mới mang mía ra ngồi lên nó. Và cặp mía từ từ nhấc bổng bà lên. Bà bay lọt qua cửa trăng. Bà thoát ra ngoài trời. Người bà mất hút vào màn đêm Ba mươi đen kịt như mực. Nhưng đến chặp gà gáy lần cuối của buổi bình minh sáng mùng Một Tết, đôi mía tím lại nhẹ nhàng loe lóe đưa bà Dả Dzỉn trở về

YPhương
.
.
.