Người phá bỏ hủ tục kinh hoàng trên dãy Trường Sơn

Thứ Hai, 28/01/2013, 14:58

Từ ngàn đời nay, tộc người Ma Coong sống dọc dãy Trường Sơn ở miền Tây Quảng Bình luôn giữ một hủ tục kinh hoàng: Nếu đứa trẻ sinh ra không may người mẹ bị chết, thì đứa trẻ cũng bị chôn theo mẹ. Hủ tục ấy bắt đầu bị xoá bỏ khi Nguyễn Diệu đến bản Cà Roòng, xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch lập thân.

Rùng rợn một lời nguyền

Những ngày áp tết Tân Tỵ. Đi dọc theo con suối trong vắt là những phụ nữ dân tộc Ma Coong lầm lũi về bản với những sản vật mang theo của thiên nhiên ban tặng. Nhìn những phụ nữ hiền lành kia, những em bé ngây thơ, trong sáng kia bỗng chợt nghĩ tới hủ tục ghê người nơi đây, cảm giác ớn lạnh bủa vây lấy tôi trong bảng lảng trời chiều. Bên bếp lửa sáng rực góc nhà sàn, già làng Y Cư kể về lời nguyền của tộc người mình. Trời buốt, nhưng nghe chuyện của già làng mồ hôi chảy đầy lòng bàn tay, thỉnh thoảng tôi lại giật thót người khi nghe tiếng con hoãng lạc mẹ than trong đêm vắng.

Tự bao giờ đến bây giờ, người Ma Coong, người Khùa, Sách, Mày ở dưới tán rừng Trường Sơn này là những người luôn sợ ma. Họ sợ đến nỗi, khi có người thân mất, người Ma Coong đem vào rừng sâu chôn cất, sau đó họ quay đầu chạy bán sống bán chết về bản vì sợ con ma đuổi theo về nhà. Chính vì vậy, bất cứ người Ma Coong nào cũng đều không biết mộ người thân của mình ở đâu.

Không biết tự lúc nào, đời này qua đời khác người Ma Coong luôn rỉ tai nhau một lời nguyền: "Giàng bảo, nếu người mẹ chết mà con không chôn theo thì con ma mẹ luôn về nhà quấy nhiễu những người còn sống. Phải chôn theo thôi, ai không làm theo thì cả bản bị con ma bắt". Nghe già làng nói vậy, hai anh bạn đồng nghiệp của tôi bỗng ngồi lui dần, lui dần vào tận bếp lửa, đưa mắt nhìn nhau, nỗi sợ của người Ma Coong đã bủa vây lấy họ.

 Từ lời nguyền rùng rợn đó, những cảnh tượng kinh hoàng đã âm thầm xảy ra dọc thung lũng ở thâm sơn này. Đã gần 20 mùa rẫy rồi, nhưng Y Cư vẫn mãi dằn vặt khi tự tay chôn sống đứa con của mình. Ánh mắt hắt hiu nhìn đốm lửa hồng, Y Cư thổn thức. Một ngày đầu đông năm 1994, vợ Y Cư sinh con nhưng bị băng huyết rồi qua đời. Ba ngày sau, dân bản đến nhà Y Cư để thực hiện lời nguyền. Nhìn đứa con tròn xoe đang ngủ yên trên đôi tay của mình, Y Cư phải nhìn đi hướng khác khi trao con cho dân bản. Tiếng khóc thét của con trẻ khi đặt bên cạnh thi thể của vợ như nhát dao chém vào lòng Y Cư. Tiếng khóc thét của đứa trẻ vẫn vậy, đã gần 20 mùa rẫy vẫn hằn in trong tâm khảm Y Cư...

Hơn 20 năm qua dân bản ở Cà Roòng vẫn thấy Y Hoi lầm lũi như con gấu rừng lẻ bạn khi vợ của Y Hoi là Y Bắp qua đời. Chôn cất vợ xong, Y Bắp chạy về nhà thì thấy bà con dân bản đã vây kín chật nhà để thực hiện lời nguyền. Vợ Y Hoi sinh đôi 2 bé trai kháu khỉnh, nỗi đau mất vợ không nguôi thì Hoi lại phải tự tay chôn sống 2 đứa con của mình. Đêm, khi mảnh trăng cuối cùng vắt qua đồi núi để nhường chỗ cho sao mai, Y Hoi đưa 2 đứa con vào rừng. Gió lạnh xé lòng cùng tiếng khóc con trẻ. Từ rừng trở về nhà, Y Hoi uống hết 3 bát rượu sắn, cầm rựa chém nát cả thân cây già trước hiên, nhưng nỗi đau vẫn cứ lớn dần. Bỏ lại cả tiếng kèn, tiếng trống của những đêm tự tình. Y Hoi lầm lũi trở thành con người khác.

Cu Đường (bên phải) đứa trẻ đã cùng vợ chồng anh Nguyễn Diệu xóa bỏ tục nguyền.

Lời nguyền rùng rợn "mẹ chết phải chôn theo con" còn xảy ra với nhiều dân bản nữa như Y Hắt, Y Kham, Y Hên... Nỗi đau cứ vậy dày lên như lá cây rừng rơi xuống qua mùa giông bão.

Đốt cháy đuốc rừng tìm người phá bỏ tục nguyền

Cách đây 18 năm, bà con tộc người Ma Coong lần đầu tiên chứng kiến một đám cưới lạ diễn ra tại bản mình. Đó là đám cưới của anh Nguyễn Diệu với Y Nhoong, một thiếu nữ của bản Cà Roòng.

Năm 1995, Nguyễn Diệu cùng một số người bạn của mình rời Huế vào dọc dãy Trường Sơn để tìm sản vật quý. Đặt chân đến bản Cà Roòng, Diệu bị sốt rét rừng quật ngã. Hàng ngày anh được già làng và Y Nhoong chăm sóc bằng lá cây rừng và sản vật rừng. Quăng quật với cơn sốt rét hơn cả tháng trời, Diệu đã được cứu sống. Không thấy Giàng, Diệu chỉ thấy bàn tay ấm áp của Y Nhoong đã cứu mình qua cơn sinh tử. Cảm động trước tấm lòng của cô gái bản, Diệu và Y Nhoong nên vợ nên chồng.

Cảm mến già làng, Diệu chọn Cà Roòng để an cư lập nghiệp. Sinh sống ở bản được gần 1 năm, không ít lần chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng con chôn theo mẹ của dân bản, Diệu thao thức, sợ hãi. Anh quyết định bước qua lời nguyền. Nhiều đêm chàng trai người kinh chạy ra bờ suối ngồi một mình thao thức tìm cách giúp dân bản bước qua tục nguyền. Nhưng hủ tục như hòn đá táng che kín tâm hồn của người dân bản đời này qua đời khác. Diệu nói với già làng chuyện bỏ hủ tục. Già làng mắt trợn ngược sợ hãi thầm thì với cây, cỏ, núi, rừng.

Xin Giàng đừng để con ma bắt đi thằng Diệu, đừng để hắn suy nghĩ như con hươu, con hoẵng.

Già làng không chịu, Diệu nói với vợ. Đêm đó, Y Nhoong ôm chăn ra góc nhà sàn để ngủ vì Nhoong sợ, con ma đang làm tội chồng mình, mới để hắn nghĩ chuyện phá bỏ lời nguyền của tộc mình.

Cả tháng trời Diệu thao thức, nhưng anh vẫn cố gắng làm việc, ăn uống, nói chuyện bình thường để già làng và vợ thấy được mình không bị con ma làm tội. Rồi Diệu tìm cách thuyết phục vợ từ từ. Lúc đầu Y Nhoong còn cự cãi, nhưng nghe Diệu phân tích dần dần Y Nhoong cũng hiểu ra.

Tháng 9/1995, ở bản Cà Roòng, có Y Xoong vừa sinh con được 2 ngày rồi mất, dân bản họp bàn chôn thằng bé theo mẹ. Vừa đặt gánh lá rừng xuống sàn nhà, nghe tin vậy Nguyễn Diệu rụng rời chân tay, anh vội chạy đến nơi đứa trẻ sắp bị chôn theo mẹ. Trên khoảnh đất rừng, những bó đuốc sáng rực được thắp lên, già làng bồng đứa trẻ tím tái chuẩn bị đưa xuống huyệt, Diệu lao vào khẩn khoản xin già làng, xin dân bản đưa đứa trẻ về nuôi. Hàng trăm ánh mắt nhìn Diệu trừng trừng; hắn dám chống lại lời nguyền của Giàng à.

Vợ anh Diệu và đứa con nuôi đầu của gia đình anh giờ đã lớn.

Không một ai đồng ý, Diệu lao vào cướp đứa trẻ trên tay già làng chạy thục mạng vào rừng. Tiếng la hét, tiếng nguyền rủa của dân bản đuổi theo anh. Hàng trăm bó đuốc được dân bản thắp sáng cả khoảng rừng để tìm Diệu và đứa bé. Tiếng giết, giết, tiếng la ó của dân bản bủa vây cả không gian núi rừng. Diệu chạy thục mạng gần 2 tiếng đồng hồ, khi đã bỏ xa dân bản anh mới tìm hang đá đưa đứa trẻ vào trú ẩn.

Cởi tấm áo đang mặc sưởi ấm cho đứa bé. Nhai lá rừng cho đứa trẻ uống nước cầm hơi rồi Diệu tìm cách báo lại với vợ. Cả bản lầm rầm khấn vái, Y Nhoong lầm lũi tránh xa ánh mắt dân bản. Hàng ngày Nhoong cắt rừng đem cháo, đường vào để Diệu nuôi đứa bé. Vợ chồng anh quyết định đặt tên đứa trẻ là Cu Đường. 3 tháng sau, khi đứa trẻ đã cứng cáp, vợ chồng Diệu quyết định đưa con về bản. Những ánh mắt ngờ vực, nhiều ánh mắt sợ hãi vẫn hướng về căn nhà của Diệu.

Cu Đường lớn nhanh, đôi mắt tròn xoe của bé đã xua tan mọi ngờ vực. Hàng ngày Diệu bồng con đến từng nhà dân bản giải thích cho mỗi người nghe; lời nguyền kinh hoàng đó không có thật. Từ sự miệt mài của vợ chồng Diệu, dân bản đã hiểu ra và lời nguyền rùng rợn được xoá bỏ. Giờ Cu Đường được ba mẹ đặt lại tên là Nguyễn Văn Vinh, Vinh đang học lớp 12 Trường Dân tộc nội trú tỉnh Quảng Bình. Hàng tháng, Vinh lại vượt gần 200km để về nhà với ba mẹ và dân bản. Gặp tôi, em cười thật hiền với ước mơ trong veo như dòng suối Cà Roòng: "Học xong em về dạy học cho bà con dân bản".

Giúp bản đổi thay từng ngày

Một góc bản Cà Roòng.

Ngoài việc cứu sống nuôi lớn Cu Đường thành người, vợ chồng Nguyễn Diệu còn đón về nhà nuôi nhiều cháu nhỏ con bà con dân tộc khó khăn đến trưởng thành. Nhiều đứa trẻ khi mẹ sinh ra không may qua đời, vợ chồng Diệu đón về nhà chăm bẵm xem như đứa con ruột thịt của mình. "Không có thằng Diệu thì nhiều đứa trẻ vô tội còn bị chôn theo mẹ, nhờ hắn dân bản mình mới khỏi mang tội với Giàng", Y Cư thì thầm với tôi trong đêm vắng.

Không chỉ giúp dân bản xoá bỏ hủ tục, Diệu còn bày cho bà con trong bản biết cầm cái cày, cái cuốc, trồng cây bắp, nuôi con gà, con heo để xoá đói, giảm nghèo. "Giúp bà con cũng là giúp mình, bản làng giàu lên con em được đến trường học hành thì mình cũng thấy hạnh phúc", Diệu nhẹ tênh khi nói về những việc mình làm.

Chia tay gia đình anh Nguyễn Diệu, chúng tôi về xuôi với tâm hồn sâu lắng tình người, bởi ngọn lửa tình yêu thương của Diệu đã lan toả đến bất cứ ai khi gặp mặt

Dương Sông Lam
.
.
.