Những hé lộ bất ngờ về hai vụ án nổi tiếng của triều Nguyễn qua sách cổ

Thứ Năm, 18/07/2013, 16:44

Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chúng ta đã biết về những vụ án liên quan đến các bậc công thần của vương triều. Triều hậu Lê nổi tiếng với vụ án Lệ Chi Viên liên quan đến Nguyễn Thị Lộ (thiếp của Nguyễn Trãi) dẫn đến cái chết của vua Lê Thái Tông để rồi một công thần như Nguyễn Trãi đã phải nhận cái án tru di tam tộc. Đến vương triều Nguyễn cũng có những vụ án lớn liên quan đến các bậc công thần của vương triều. Hai vụ án nổi tiếng nhất là vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Tả Quận công Lê Văn Duyệt.

Nguyễn Văn Thành - Cái chết tức tưởi do nghi án thơ phản

Nguyễn Văn Thành (1758 – 1817) là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn và là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên (vua Gia Long) của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam (1802 – 1945). Ông là người đã bôn ba theo vua Gia Long từ lúc khó khăn nhất đến khi nhà Nguyễn thống nhất được giang sơn. Cùng với vua Gia Long, ông đã trải qua bao gian lao và hiểm nguy khi quân Tây Sơn truy đuổi tưởng như không vượt qua khó khăn, nhưng bằng trí thông minh và tài thao lược đã giúp Nguyễn Văn Thành vượt qua được tình thế hiểm nguy.

Dù là một công thần của triều đình nhưng Nguyễn Văn Thành đã liên quan đến một vụ án thời vua Gia Long để rồi ông đã phải chọn cái chết tức tưởi để kết thúc một cuộc đời đầy tự hào và oan trái. Điều đặc biệt ở chỗ Nguyễn Văn Thành là người soạn thảo Bộ luật Gia Long nhưng chính ông đã phải nhận cái án đầy khắc nghiệt mà mình đã soạn ra.

Vụ án của Nguyễn Văn Thành xuất phát từ một bài thơ và ông đã phải chịu trách nhiệm liên đới. Nguyễn Văn Thành có con trai Nguyễn Văn Thuyên. Vốn là người hâm mộ văn chương, Thuyên thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên có làm một bài thơ tặng.

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ” (ghi chép lịch sử thời vua Gia Long) chép bài thơ có nội dung sau: “Nghe nói Ái Châu nhiều tuấn kiệt/ Dành để chiếu bên ta muốn chờ/ Vô tâm ôm mãi ngọc Kim Sơn/ Tay sành mới biết ngựa Ký Bắc/ Thơm nghìn dặm lan trong hang tối/ Vang chín chằm phượng hót gò cao/ Phen này nếu gặp Tể (tướng) trong núi/ Giúp ta kinh luân chuyển hóa cơ”.

Bài thơ đã đến tai nhiều vị quan triều đình trong đó có cả vua Gia Long. Do Nguyễn Văn Thành là một công thần của triều đình nên có một số người ghen tị với công trạng của ông. Những người có hiềm khích với Nguyễn Văn Thành đã dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua của cha con ông. Vụ án đã lan rộng ra khắp nơi và trở thành vụ án lớn nhất thời bấy giờ. Vì là người có công trạng lớn trong triều đình nên việc xử lý Nguyễn Văn Thành rất khó khăn. Ông đã bị tước hết chức quan và tiếp tục chờ xử lý.

 Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 53, năm Gia Long thứ 15 (1816) có chép: Vua nói: “Văn Thành là kẻ có tội nhưng cũng nên có cách xử trí”. Bèn thu quan phục và kiếm, Văn Thành mất chức. Vua bảo bầy tôi rằng: “Văn Thành thân làm đại thần mà dung túng cho con kết nạp môn khách là hiếu danh ư? Hay ý muốn làm gì? Lật ngôi vua ư? Phản loạn ư?”

Dù là bậc thiên tử nhưng trước sức ép các quan khác, Gia Long cũng không bảo vệ được một trong những vị công thần có công lớn đưa mình lên ngôi hoàng đế là Nguyễn Văn Thành. Vụ án ngày càng trở nên căng thẳng trong triều đình, cuối cùng Nguyễn Văn Thành đã phải chịu cái án nặng nhất – cái chết.

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 55, năm Gia Long thứ 16 (1817) có chép: Vua nói: “Trẫm đãi Văn Thành không bạc, nay hắn tự mình làm nên tội thì phép công của triều đình trẫm không thể làm của riêng được”. Bèn sai bắt Văn Thành và con giam ở nhà quân Thị lang. Bầy tôi họp để xét hỏi Văn Thành. Hỏi: “Có làm phản không? Có muốn lật ngôi không?”. Thành nói: “Không”.

Khuê Văn Các – hồn văn của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành.

Vài ngày sau, thống chế Hoàng Công Lý nói với Văn Thành rằng: “Án đã xong rồi, vua bắt bầy tôi chết, bầy tôi không chết không phải là trung”. Thành lặng im uống thuốc độc chết. Vua triệu Hoàng Công Lý hỏi rằng: “Văn Thành khi chết có nói gì không?” Công Lý nói: “Bẩm không”. Vua giận nói rằng: “Văn Thành không biện bạch mà chết, sự nhơ bẩn càng rõ rệt”. Đúng lúc đó, có quân lính lại nhặt được tờ di chiếu trần tình của Văn Thành trước lúc chết ở nhà quân đem dâng. Vua cầm tờ trình khóc to đưa lên cho bầy tôi xem mà dụ rằng: “Văn Thành từ lúc nhỏ theo trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm không bảo hộ được ấy là trẫm kém đức”.

Vụ án Nguyễn Văn Thành khép lại để lại những dấu hỏi lớn trong triều đình. Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử, còn người con trai của ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị trảm quyết. Việc vì sao tờ di chiếu trần tình trước lúc chết của Nguyễn Văn Thành lại không đến được tay vua trước lúc ông chết vẫn là bí ẩn.

Lê Văn Duyệt – Kỳ án trên ngôi mộ

Tả Quận công Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) là một công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (triều vua Minh Mạng). Thế nhưng điều đáng nói trong cuộc đời của Lê Văn Duyệt chính là bản án mà triều đình đã giáng xuống ngôi mộ của ông.

Lê Văn Duyệt đã có nhiều công lao giúp vua Gia Long đánh đổ nhà Tây Sơn để lập ra nhà Nguyễn. Vì thế mà Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng ngũ khai quốc công thần của vương triều Nguyễn. Lê Văn Duyệt sống và làm quan dưới hai đời vua nhà Nguyễn là Gia Long và Minh Mạng. Thế nhưng cuộc đời của ông đã gặp một chuyện hy hữu liên quan đến người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi để rồi trở thành một vụ án lớn mà lịch sử thường gọi là vụ án Lê Văn Duyệt.

Sách “Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập” nói về việc vua Gia Long phong cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành.

Từ khi con nuôi ông là Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt. Năm 1835, dù Lê Văn Duyệt đã chết nhưng sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt dâng sớ kể tội Duyệt xin vua đưa người thân Lê Văn Duyệt về Hình bộ xét tội. Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Lê Văn Duyệt, có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ.

Trước khi có biến cố thành Phiên An do Lê Văn Khôi gây ra thì mối quan hệ giữa vua Minh Mạng và Lê Văn Duyệt vẫn rất bình thường, thậm chí Lê Văn Duyệt còn là một trong những vị quan được vua Minh Mạng nể trọng. Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 64 năm Minh Mạng thứ 11 (1830) có chép: Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt dâng sớ xin về Kinh thành chúc thọ. Vua dụ rằng: “Xem lời trong sớ đủ thấy tấm lòng thành của khanh. Nhưng nghĩ khanh nay tuổi đã già yếu lại vừa mới khỏi ốm, chính nên tĩnh tâm để điều dưỡng. Vả lại, Gia Định là trọng trấn của một phương, khanh nên lưu lại làm việc”.

Khi cuộc nổi loạn ở thành Phiên An của Lê Văn Khôi bị triều đình đàn áp thì cũng là lúc đỉnh điểm sự ghét bỏ của Minh Mạng đối với Lê Văn Duyệt được phát ra. Cho dù Lê Văn Duyệt đã chết nhưng với những gì vua Minh Mạng còn ấp ủ trong lòng từ lúc con Lê Văn Duyệt nổi loạn thì việc kết tội Lê Văn Duyệt là khó tránh khỏi. Cuối cùng, sau nhiều biến cố đã xảy ra, Lê Văn Duyệt và gia đình ông đã phải nhận cái án không biết bên kia thế giới ông có biết hay không?

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 162 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép về tội án của Lê Văn Duyệt như sau: Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có 7 tội đáng chém: 1- Sai người riêng của mình sang Diến Điện kết ngoại giao ngầm. 2- Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến kinh thành để tỏ mình có quyền. 3- Xin giết Thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người khác. 4- Dâng sớ chống lại mệnh vua. 5- Kết bè đảng. 6- Giấu riêng những giấy đóng sẵn ấn Ngự bảo. 7- Gọi mộ tiên nhân là “lăng”.

Vua dụ rằng: “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ công khai, đạo công tồn tại ở ta thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ cả thiên hạ đều giận. Vả, Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng, dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ, hắn chết đã lâu, lại đã truy đoạt quan tước, nay nắm xương khô cũng không được để yên. Vậy sai Đốc phủ Gia Định lập tức phá tan mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc 8 chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu tội chết) để nêu rõ tội danh sau khi chết mà làm sáng tỏ phép nước về sau này và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời, người nhà hắn thì trị nghiêm…”.

Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng. Các ngôi mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Vụ án Lê Văn Duyệt khép lại để lại nhiều ẩn khuất. Có lẽ ở bên kia thế giới, Lê Văn Duyệt cũng không biết được rằng khi ông mất đi, đã có một bản án được thực hiện ngay trên ngôi mộ của mình. Cũng cần nói rằng, đây là vụ án có một không hai trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và lịch sử vương triều Nguyễn nói riêng

Hà Đạo – Khắc Niên
.
.
.