Việt Nam - Ngôi sao mới của châu Á

Thứ Hai, 11/09/2017, 08:13
Việt Nam có nhiều tiềm năng để trở thành ngôi sao mới của khu vực châu Á. Ðó là nhận định của nhiều định chế và nhà phân tích hàng đầu thế giới, như Ngân hàng Ðầu tư nổi tiếng của Thụy Sĩ, UBS; và một trong 4 đại gia kiểm toán hàng đầu thế giới PriceWaterhouseCoopers (PWC).


UBS - Việt Nam sẽ vượt Trung Quốc vào năm tới

Theo UBS, tăng trưởng GDP của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 6,5% vào năm 2017, đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp vượt mốc 6%. Năm 2018, UBS dự báo GDP của Việt Nam sẽ lần đầu tiên vượt mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc.

UBS cho biết thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam tương đối trưởng thành nếu tính theo các tiêu chuẩn của thị trường sơ khởi với 1.100 cổ phiếu niêm yết và tổng mức vốn hóa thị trường hơn 100 tỷ USD thông qua 3 sàn chứng khoán: HSX, HNC và UPCoM. Chỉ số chuẩn Việt Nam (VN Index) bao gồm danh mục của HSX và có mức vốn hóa thị trường là 81,7 tỷ USD.

Kể từ cuối năm 2012, TTCK Việt Nam mở rộng đáng kể - số công ty có giá trị hơn 1 tỷ USD và giá trị giao dịch hàng ngày đều tăng gấp 3 lần, từ 7 lên 21 công ty và từ 49 triệu USD lên 151 triệu USD. So với cùng kỳ, số tài khoản giao dịch tăng 39% lên 1,8 triệu, trong đó số tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài cũng tăng 25% lên gần 20.000.

Một góc TP HCM năng động qua ống kính của người nước ngoài.

Thanh khoản thị trường được kỳ vọng sẽ tiếp tục cải thiện nhờ vào việc cải cách tỷ lệ sở hữu nước ngoài đưa ra năm 2015, cho phép công ty nhận 100% đầu tư từ nước ngoài trong các ngành "không hạn chế". Chỉ trong 12 tháng qua, thị trường có 40 cổ phiếu mới niêm yết, phần đông là các công ty vốn hóa lớn trong các ngành tăng trưởng cao như năng lượng, điện thoại di động và tiêu dùng.

Tháng 6-2017, Việt Nam trở thành nước có tỷ trọng lớn thứ 3 (10%) trong chỉ số MSCI FM và nâng mức phân bổ thêm 1% nhờ việc Pakistan được nâng hạng lên thị trường mới nổi. Mặc dù năm nay TTCK Việt Nam vẫn chưa được nâng hạng, quyết định của MSCI khiến Chính phủ quyết tâm hơn nữa, "làm những gì cần thiết" để lọt vào MSCI Emerging Markets (EM).

PWC - Cải cách để biến tiềm năng thành thực tiễn

Trong bài viết đăng trên PWC ngày 30-5-2017, ông John Hawksworth, Kinh tế trưởng tại Vương quốc Anh của PWC và là nhà biên tập của ấn phẩm Economic Outlook, cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm năng để trở thành ngôi sao mới của châu Á trong thời gian tới, nhưng để đạt được điều đó chúng ta cần phải tiếp tục những cải cách hiệu quả.

Theo ông Hawksworth, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển mạnh nhất trên thế giới kể từ những cải cách đổi mới vào cuối những năm 1980. Chỉ có Trung Quốc từng đạt được tăng trưởng mạnh hơn so với Việt Nam về GDP bình quân đầu người. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững này đã đẩy Việt Nam từ nước tương đối nghèo vào năm 1990 thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình hiện nay. Cùng với đó là những cải thiện lớn về tuổi thọ trung bình, làm giảm đáng kể con số tử vong ở trẻ em và sự gia tăng ấn tượng về trình độ học vấn.

Ông Hawksworth cho rằng dù có tiềm năng to lớn, nhưng Việt Nam phải tiếp tục những tiến triển trong công cuộc cải cách. Phân tích của PWC trong Báo cáo Thế giới năm 2050 cho thấy Việt Nam có thể là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới trong thời gian từ nay tới năm 2050, cùng với Ấn Độ và Bangladesh. Điều này có thể đưa Việt Nam lên vị trí thứ 20 trong bảng xếp hạng GDP toàn cầu vào giữa thế kỷ này nếu tính trên sức mua tương đương (PPP).

Tuy nhiên, ông Hawksworth nhấn mạnh không phải tự động mà Việt Nam có thể hiện thực hóa được tiềm năng tăng trưởng này. Điều đó sẽ đòi hỏi những tiến bộ liên tục về cải cách cơ cấu trong 4 lĩnh vực chính: ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách ngân hàng, thúc đẩy hoạt động của khu vực tư nhân và áp dụng các công nghệ mới.

Bốn vấn đề

Thứ nhất, về ổn định kinh tế vĩ mô, một yêu cầu quan trọng là phải giảm thâm hụt ngân sách hàng năm ở mức bền vững, không nhiều hơn 3% GDP vào năm 2020. Điều này đòi hỏi mở rộng cơ sở thuế trong các lĩnh vực như thuế tài sản và thuế thu nhập từ vốn, cũng như áp đặt kỷ luật cao hơn đối với các chi tiêu công. 

Chính phủ cũng có thể tiếp tục tiến trình từng bước đã được tiến hành để làm cho tỷ giá linh hoạt hơn, khiến nó có thể có vai trò giảm sốc cho nền kinh tế. Cũng như các nền kinh tế tiên tiến và một số nền kinh tế mới nổi, điều này cũng có thể liên quan đến một động thái trong trung hạn hướng tới một mục tiêu lạm phát do Chính phủ quy định.

Thứ hai, cần phải cải cách hệ thống ngân hàng và giải quyết nợ xấu. Cũng như Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã phản ứng lại cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 bằng cách tăng cường đầu tư và tín dụng. Đó là một phản ứng thích hợp vào thời điểm đó, nhưng nó đã để lại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam một khoản nợ xấu lớn. 

Đã có nhiều tiến triển trong việc giải quyết vấn đề này, nhưng theo báo cáo của IMF năm 2016 cho biết, vẫn còn nhiều việc phải làm. Chương trình tái cơ cấu và hợp nhất hệ thống ngân hàng Việt Nam về dài hạn sẽ làm tăng tính ổn định tài chính và tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng trong tương lai.

Thứ ba, cần đẩy mạnh hoạt động của khu vực tư nhân và tạo ra các nhà xuất khẩu trong nước. Nhìn xa hơn trong vài năm tới, một trong những thách thức chính mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt là phát triển khu vực tư nhân cũng như làm cho các doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hơn. 

Một phần của việc này sẽ làm cân bằng sân chơi để tiếp cận vốn và đất đai giữa các doanh nghiệp nhà nước và các đối thủ cạnh tranh trong khu vực tư nhân. 

Một ưu tiên khác cho chính sách của Chính phủ là hỗ trợ phát triển các nhà cung cấp trong nước cho các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực như ô tô, điện tử và các ngành công nghệ cao khác. 

Kinh nghiệm từ Trung Quốc và các “con hổ” châu Á trước đó như Hàn Quốc cho thấy điều này sẽ giúp chuyển giao kiến thức và công nghệ từ các công ty đa quốc gia đến các nhà cung cấp trong nước, một số trong đó sau đó có thể trở thành nhà vô địch cuối cùng của xuất khẩu Việt Nam về dài hạn.

Thứ tư, phải đạt được tiến bộ công nghệ, từ ứng dụng đến sáng tạo. Khi dân số Việt Nam ngày càng già, để tiếp tục phát triển kinh tế chúng ta sẽ phụ thuộc nhiều vào tăng năng suất, mà quan trọng nhất là nhờ ứng dụng tiến bộ công nghệ. Trong thập niên tiếp theo, điều này chủ yếu là Việt Nam phải sử dụng tốt các công nghệ được phát triển ở các nước khác. 

Điều này có thể liên quan đến mọi thứ, từ việc áp dụng các công nghệ kỹ thuật số hiện đại trong các nhà máy và văn phòng để sử dụng máy móc nông nghiệp mới nhất đến phân bón để tăng năng suất trong ngành nông nghiệp. Điều này sẽ cho phép nhiều lao động chuyển sang các ngành sản xuất và dịch vụ, nơi năng suất trung bình cao hơn nhiều so với nông dân.

Tuy nhiên, một khi bạn nhìn đến năm 2030 hoặc xa hơn, như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc trước đó, Việt Nam sẽ cần phải di chuyển từ chỗ áp dụng công nghệ của các nước khác đến chỗ có những đổi mới công nghệ riêng của mình. Điều này đòi hỏi phải phát triển một cơ sở nghiên cứu đẳng cấp thế giới trong các lĩnh vực được lựa chọn, liên kết với các trường đại học mạnh hơn; và các mạng lưới liên quan của các công ty tư nhân được ngân sách chính phủ hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học cơ bản và phát triển kinh doanh giai đoạn đầu. Luật Sở hữu trí tuệ cũng cần phải được xây dựng và thi hành hiệu quả hơn khi Việt Nam phát triển những đổi mới về công nghệ của mình.

Bàng Cương
.
.
.