Sự tích có thật về người phụ nữ chèo thuyền ngược sông Vàm Cỏ lên ngàn cắt lúa

Thứ Tư, 05/06/2013, 22:09

“Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Còng, cắt lúa thay chồng, thay chồng nuôi con…”. Lời ca khúc “Lên ngàn” của nhạc sĩ Hoàng Việt cách nay hơn nửa thế kỷ dường như vẫn chưa bao giờ nguội lạnh. Nhiều thế hệ ca sĩ đã hát và hàng triệu con tim lay động, nức nở một cảm xúc dâng trào về cái thời “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Về Tây Ninh, trong câu chuyện hàn huyên thế sự, trong phút ngẫu hứng, người cựu binh anh hùng Mười Thương (tức Phan Văn Điền, nhân vật 3 lần ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm) cất giọng trầm vang bài “Lên ngàn”. Rồi ông bảo, bài hát quá nổi tiếng nhưng giờ đây nào ai còn biết đến “cái nôi” tạo cảm hứng cho Hoàng Việt sáng tác ra bài hát ấy nữa.

Trảng Còng, miền quá khứ đã mất dấu lâu rồi. Như chạnh lòng về tâm sự của ông Mười Thương, chúng tôi quyết định lên đường tìm về địa danh Trảng Còng năm xưa, tìm về cội nguồn khúc nhạc lịch sử theo năm tháng đi suốt đến ngày hôm nay để hiểu thêm về cuộc chiến đấu gian khổ của cha anh và để tri ân người nhạc sĩ vang bóng một thời.

Bài ca ngược dòng nước lũ

Đúng như lời anh hùng Mười Thương tâm sự, chúng tôi tìm về xã Phước Vinh (Châu Thành – Tây Ninh), nơi ngày xưa từng là căn cứ kháng chiến của cách mạng Tây Ninh và một phần miền Đông Nam bộ. Sau trận mưa rào, con đường đất đỏ trở nên mềm dẻo, hơi đất bốc lên nồng nặc nhưng lại làm dịu cơn nắng cháy nhiều ngày. Trảng Còng quả thật đã tắt lịm từ bao giờ. Chúng tôi vào UBND xã Phước Vinh hỏi những cựu chiến binh thuộc hàng lão làng nhưng người thì xua tay không biết người thì ngờ ngợ ở đâu đó không rõ. Thế rồi, một cán bộ “già cỗi” nhất chỉ chúng tôi chạy xe vào tít trong rừng cao su cách chừng chục cây số rồi hỏi thăm tiếp. Sự mịt mờ của người chỉ khiến chúng tôi như mò kim đáy bể. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác là đi tiếp và hỏi. May thay, gặp Bí thư ấp 1 Đinh Văn Hòa, chúng tôi như mở cờ trong bụng. Hỏi về Trảng Còng, ông ngớ ra giây lát rồi à lên một tiếng: “Tên này bây giờ không ai gọi nữa đâu. Mấy chục năm nay, làm gì còn cây Còng nào nữa ở cái Trảng này. Gọi là Trảng cao su thì đúng hơn”.

Theo hướng cua tay của ông Hòa, chúng tôi phóng tầm mắt ra phía trước mặt. Đó là bạt ngàn cao su đang ở độ tuổi 20. Thật tiếc là chúng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cây Còng nó hình thù ra sao. Nghe ông Hòa mô tả thì cũng chỉ hình dung một cách trừu tượng chứ thực ra không thể định hình được. Ngày đó người ta gọi là Trảng Còng vì toàn bộ Trảng là những cây Còng dày đặc. Một loại cây sinh trưởng mạnh, nhanh. Thân cây lâu năm to hơn vòng tay người ôm, gỗ cây dẻo, dễ uốn nên gỗ Còng có rất nhiều công dụng: Nhỏ thì làm cán dao, cán rựa, làm cột chuồng trâu, bò, gà, lợn. Lớn thì xẻ ra uốn cong làm bồ chứa thóc, gạo.

Bộ đội, nhân dân khai hoang đất ở Trảng Còng và những Trảng xung quanh sản xuất lương thực tự phục vụ cho mình và cho cách mạng. Chủ trương của ta là không khai hoang trắng mà để những vùng rậm rạp làm nơi sơ tán, ẩn nấp khi giặc càn tới. Đất Trảng Còng rất màu mỡ, bộ đội ta trồng hoa màu, xạ lúa. Cặp bìa rừng nơi gần sông suối là những trại chăn nuôi heo, gà, bò… vì thế mà công tác tăng gia sản xuất đã cung ứng một lượng thực phẩm lớn cho cách mạng.

Nơi ông Đinh Văn hòa đứng chính là Trảng Còng năm xưa.

Mùa mưa năm 1952, một trận bão lớn kèm theo mưa liên tục nhiều ngày đổ trực tiếp xuống vùng Tây Ninh. Mưa gió bão bùng, sấm chớp giật nổ đùng đùng khiến cho nhà cửa, cây cối sập đổ. Lương thực hoa màu bị gió bão quần nát, heo gà chết trôi bồng bềnh trên mặt nước.

Cùng lúc đó, nước sông Vàm Cỏ Đông mỗi lúc một dâng cao, chẳng mấy chốc mà vút lên tận nóc nhà. Nhân dân hò nhau trèo hết lên ngọn cây tránh nước. Tiếng xoong chảo khua vào nhau inh ỏi cầu viện. Những ruộng lúa đang trổ hạt sắp đến ngày gặt bị ngập sâu trong nước. Bộ đội tiếc quá bảo nhau lặn ngụp kiểm tra thì thấy hạt vẫn cứng chắc, lòng khấp khởi nhưng vài ngày sau, toàn bộ số lúa ấy đã úng thối hết. Mực nước sông không ngừng lên, có nơi cao tới 4 mét. Quốc lộ 22 bị tắc nghẽn, xe không qua được. Tất cả hàng hóa chi viện từ ngoài vào phải chuyển bằng thuyền. Khi nước rút dần, bộ đội dầm mình dưới nước cố gắng thu hoạch lúa và hoa màu chưa bị thối úng cho nhân dân.

Hòa mình vào cuộc chiến, sống trong gian khổ cùng nhân dân, nhạc sĩ Hoàng Việt coi mình như một phần không thể thiếu trong khoảng thời gian ông ở Trảng Còng phục vụ văn nghệ cho bộ đội và nhân dân. Vừa từ Đức Hòa (Long An) về, Hoàng Việt chứng kiến cảnh người dân vật lộn với nước dữ vớt vát lúa khoai mà nặng lòng. Ông nói với người bạn tâm giao, nhà thơ Bảo Định Giang hãy về trước để một mình ông ở lại. Hoàng Việt đi men theo dòng sông chảy xiết, nhìn thấy những người phụ nữ còng lưng chèo thuyền, cảm xúc tràn về.

Những ruộng lúa của bộ đội thì không có ai thu hoạch nên vợ bộ đội chính là nhân công chủ chốt. Các chị miệt mài chèo thuyền ngược dòng nước rút trên sông Vàm Cỏ Đông lên Trảng Còng gặt lúa trong nước. “Em đi cắt lúa trên ngàn rẫy trên ngàn nắng chiều chang chang/ Đường đi nước ngập mênh mang/ bàn chân giẫm gai lòng không thở than…”. Sự hy sinh, chịu đựng gian khổ của các chị trở thành hình ảnh đẹp nhất trong ca khúc. Mồ hôi thấm đẫm hòa cùng dòng nước xiết nhưng không cản được mái chèo lên rẫy của các chị. Sự cần cù, lam lũ của những người vợ bộ đội trong thời điểm này khiến người nhạc sĩ có một xúc cảm mạnh mẽ. Ngay ngày hôm đó, bên cánh võng giữa rừng, Hoàng Việt đã hát những lời ca tha thiết, chân thực xuất phát từ tận đáy lòng cho bạn nghe. Người bạn của ông nghe xong không cầm nổi cảm xúc, Bảo Định Giang đã khóc nức nở.

Trảng Còng chỉ còn trong câu hát

Ông Hòa kể thêm: “Hồi ấy, tôi chỉ mới 5 tuổi thôi, cha tôi đi làm cách mạng không về được còn mẹ dẫn anh em chúng tôi chạy lên tận đỉnh đồi cao nhất lánh nạn. Mưa bão mịt mù dài dằng dặc ngỡ như cả cuộc đời vậy. Cây to bục rễ trôi ngổn ngang trên mặt nước. Khắp vùng Phước Vinh khi ấy là một biển nước mênh mông, trắng xóa. Chúng tôi dầm mưa khóc lả đi vì đói. Đó là trận lụt khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất trong đời tôi từng thấy”.

Ông Hòa dẫn chúng tôi xuyên rừng cao su đi tìm Trảng Còng năm xưa. Cả một vùng đất nhiều trảng, gò, ụ nay đã được san phẳng lỳ. Quả thật rất khó để nhận ra địa danh lịch sử ấy mặc dù đó là nơi rất nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của phong trào cách mạng miền Đông Nam bộ. Con suối ngày xưa “mở đường” cho cơn lũ tràn về nay cũng chỉ còn một rãnh nhỏ như con mương. Không một tấc đất bỏ hoang, không một cây rừng còn tồn tại. Tất cả đã được con người tận dụng đến mức tối đa cho cây trồng mang lại lợi nhuận kinh tế. Nhà dân đã vào tận nơi, hơi thở cuộc sống dồn dập ngay sát Trảng Còng này rồi.

Một con đường lộ cấp phối thênh thang chạy thẳng vào, đường điện cũng đã sáng. Sự thay da đổi thịt như cuộc lột xác vùng đất “lên ngàn” năm xưa. “Kháng chiến nhất quyết thành công, anh về em thỏa ước mong”. Sự thật đã thành sự thật. Giọt mồ hôi đã tan chảy vào từng thớ đất, hình tượng người phụ nữ “cắt lúa trên ngàn” nay chỉ còn trong ca khúc.

Ông Bí thư chi bộ ấp thừa nhận thực tế rằng: “Trảng Còng đã chính thức bị xóa sổ ở chính vùng đất của nó, nơi khởi nguồn cho một ca khúc nổi tiếng đến tận ngày hôm nay. Thế hệ chúng tôi trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ sau này nhưng mấy anh em vẫn hay hát “Lên ngàn”. Mỗi khi hát lên, âm hưởng của ca khúc có sức thúc giục mạnh mẽ, bản thân tôi cảm thấy thân thương nơi mình đang sống vô cùng. Tình cảm với nhân dân, đồng chí đồng đội cũng vì thế mà mặn nồng hơn. Sau giải phóng, tôi cứ bám riết lấy vùng đất này. Nó như một phần máu thịt của tôi”.

Ông Hòa còn nhắc chúng tôi một câu nghe thật nặng lòng: “Từ nay nếu muốn hỏi về Trảng Còng thì tìm những người cựu chiến binh đã từng chiến đấu ở đây mà hỏi. Đừng hỏi những người trẻ thậm chí cả cán bộ đương thời họ cũng không biết đâu”.

Rời Trảng Còng khi bóng tối tràn về, phía sau lưng chúng tôi nghe văng vẳng lời hát suông của người cựu binh già: “nước ngập đồng xanh lúa chết/ gió mưa sập đổ mái nhà/ bao nhiêu gia đình tan hoang/ đau thương lệ rơi chứa chan…”. Lòng lữ khách mang một nỗi buồn man mác về một di tích lịch sử bị bỏ quên. Dù Trảng Còng không còn Còng nữa nhưng Trảng Còng từng là địa danh lịch sử gắn với cả một thời kỳ cách mạng gian khổ, kiên cường của nhân dân Tây Ninh. Trảng Còng không chỉ gắn liền với ca khúc “Lên ngàn” đã và đang sống suốt mấy thập kỷ qua mà nơi ấy còn thấm cả máu của những người lính đã ngã xuống cho độc lập dân tộc. Thiết nghĩ, cần có một hành động thiết thực để tưởng nhớ và tri ân họ ngay tại Trảng Còng này.

Người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh

Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra Bắc sau đó vào học trường Âm nhạc Việt Nam trên đất Bắc. Với nỗi nhớ quê hương miền Nam trào dâng, tại đây ông đã sáng tác những bài tình ca bất diệt để lại cho đời. Năm 1965, sau khi trình diễn báo cáo bản giao hưởng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ông xin được trở lại chiến trường miền Nam để tham gia công cuộc kháng chiến cùng nhân dân. Những ngày cuối cùng của năm 1967, trong một cuộc tấn công của quân Mỹ bằng máy bay và hỏa tiễn, Hoàng Việt đã hy sinh ngay bên dòng kinh quê mẹ ở Cái Bè – Tiền Giang. Người nhạc sĩ - chiến sĩ tài hoa, gan dạ ấy đã hy sinh khi tuổi đời mới 39 để lại phía sau ông cả một sự nghiệp âm nhạc bất hủ.

Trận thiên tai lịch sử năm Thìn (1952) đã làm hư hỏng 90% ruộng lúa, hoa màu. 40% nương rẫy bị thất thu. Những vựa thóc lớn của Tây Ninh như Trảng Bàng bị thất thu tới 70%. 220 ngôi nhà bị sập, 92 người chết và bị thương. Nạn đói bao trùm khắp nơi. Người dân lên rừng đào củ mài, củ nâu, kiếm măng tre, hái rau ăn chống đói.

Thanh Nguyên
.
.
.