"Thủ phủ" của những nghề thủ công truyền thống vùng sơn cước

Thứ Năm, 10/08/2017, 15:00
Bằng sự cần cù, khéo léo và sáng tạo đồng bào người Tày - Nùng ở huyện Quảng Uyên đã gắn bó, phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống của tổ tiên ngày càng mạnh mẽ, hưng thịnh trở thành vùng nông thôn điển hình để cho các địa phương khác trong tỉnh noi theo.


Ở miền sơn cước huyện Quảng Uyên (Cao Bằng), từ lâu người ta được biết đến với một miền đất đậm nét văn hóa dân tộc, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện mà còn là mảnh đất của nền văn hóa truyền thống với những làn điệu dân ca, đặc biệt nơi đây còn nổi tiếng với những làng nghề thủ công như: rèn, dệt, nhuộm vải Phúc Sen, ngói máng Tự Do, đan lát tre, nứa ở Đoài Khôn, làng hương Phja Thắp và giấy dó ở xã Quốc Dân. Mỗi làng nghề chứa đựng một ý nghĩa, một nét đẹp riêng.

Bằng sự cần cù, khéo léo và sáng tạo đồng bào người Tày - Nùng ở huyện Quảng Uyên đã gắn bó, phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống của tổ tiên ngày càng mạnh mẽ, hưng thịnh trở thành vùng nông thôn điển hình để cho các địa phương khác trong tỉnh noi theo. 

Những ngày đầu tháng 8, chúng tôi đến với xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên - nơi được coi là "chiếc nôi" của nhiều nghề truyền thống người dân tộc Nùng An.

Nơi đây, từ lâu đã được cả nước biết đến với các nghề truyền thống: rèn nông cụ, nhuộm vải chàm, dệt vải, trang phục truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, nét đặc sắc và nổi tiếng nhất vẫn là nghề rèn nông cụ. 

Nghề rèn dao, búa nằm chủ yếu ở xóm Pác Rằng, đã xuất hiện nhiều trăm năm và nghệ thuật rèn nông cụ của các thợ đã phát triển lên đến một đỉnh cao rực rỡ với sự truyền thụ của nhiều đời nghệ nhân có tay nghề cao, tinh tế.

Hiện nay, ngày càng có nhiều thợ rèn và các cửa hàng nông cụ ở dọc  quốc lộ 3 thuộc địa phận xã Phúc Sen mọc lên, thế nhưng, các thợ rèn đều tuân thủ theo một quy trình từ khâu chọn nguyên liệu đến kỹ thuật đốt lửa, quai búa… cộng với bí quyết riêng để tạo nên những sản phẩm nông cụ bền, đẹp, được người tiêu dùng ưa chuộng.

Nghề làm giấy dó ở Lũng Ỏ, xã Quốc Dân đã mang lại thu nhập ổn định cho người dân nơi đây.

Anh Nông Lưu Luyến (46 tuổi) ở xóm Pác Rằng - người có kinh nghiệm hơn 20 năm làm rèn đang sở hữu một cửa hàng bán các mặt hàng rèn nông cụ, cho biết: "Hiện cả xã có 6/10 xóm với 157 hộ làm nghề rèn, trong đó có 358 thợ lành nghề và hàng trăm thợ phụ, mỗi năm sản xuất khoảng 100.000 sản phẩm nông cụ các loại. 

Nhiều gia đình làm rèn, nhưng mỗi gia đình đều có bí truyền riêng để làm ra sản phẩm bền, đẹp nên từ xưa đến nay, những sản phẩm rèn của Phúc Sen làm ra đều được khách hàng ưa chuộng. Những năm gần đây, Phúc Sen không chỉ được biết đến là một địa chỉ sản xuất nông cụ nổi tiếng mà còn là điểm đến của nhiều du khách trong và ngoài nước đến khám phá, trải nghiệm".

Theo dọc quốc lộ 3, đoạn qua xóm Pác Rằng, xã Phúc Sen xuất hiện hàng chục cửa hàng bán dao, búa, các sản phẩm nông cụ kéo dài khoảng 1 km, kèm theo đó là những tiếng đập búa leng keng vang ra từ các lò rèn thủ công lửa đỏ hồng.

Không chỉ vậy, đi sâu vào trong xóm Pác Rằng với con đường nhỏ được bê tông hóa còn có nhiều lò rèn bên dưới những mái nhà sàn truyền thống. 

Đó là nghề của đàn ông, con trai người nơi đây, còn nghề của chị em phụ nữ Nùng An lại quanh quẩn bên khung cửi tay thoi, tay quay dệt vải, nhuộm chàm để làm những bộ trang phục truyền thống.

Làng nghề làm hương Phja Thắp ở xã Quốc Dân ngày càng phát triển.

Bà Lương Thị Vìn ở bản Khao B, xã Phúc Sen tuy đã hơn 60 tuổi nhưng hàng ngày vẫn miệt mài bên khung cửi. Vừa phơi những tấm vải chàm trên sàn nhà, bà vừa chia sẻ: "Tôi biết dệt vải từ khi còn là một cô bé chăn trâu. Thời đó, các xã Quốc Dân, Đoài Khôn, Phúc Sen nhà nhà có khung cửi, phụ nữ, con gái từ già tới trẻ ai cũng biết dệt. Con gái trước khi lấy chồng phải tự dệt vải, cắt, khâu quần áo để mang về nhà chồng. Có nhà có tới 2 - 3 khung cửi, nhà càng có nhiều con gái càng nhiều khung cửi. 

Bây giờ vải vóc có nhiều, quần áo rẻ nên bà con dần dần không dệt vải nữa. Tuy nhiên, riêng vùng Phúc Sen đồng bào Nùng An vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống là mặc quần áo chàm của dân tộc mình, nên đến nay vẫn còn khá nhiều hộ vẫn duy trì nghề dệt vải, nhuộm chàm. Riêng xóm Khao A, Khao B với hơn 100 hộ dân, cơ bản bà con vẫn còn giữ nghề dệt để phục vụ nhu cầu của đồng bào mình".

Cách làng nghề Phúc Sen khoảng 5km, làng làm hương Phja Thắp và làng nghề làm giấy dó Lũng Ỏ thuộc xã Quốc Dân đều nằm dưới những chân núi cao chót vót, cách quốc lộ 3 chỉ vài trăm mét. Phja Thắp là làng làm hương từ lâu đời, được nối tiếp qua nhiều thế hệ. Hiện, cả 51 hộ dân trong làng đều làm hương với một "cái tâm" trong sáng với nghề: không cẩu thả, không làm kém chất lượng. Với chất lượng tốt, hương Phja Thắp được đem đi bán tại tất cả các chợ phiên trong tỉnh.

Cùng với những mặt hàng thực phẩm, bó hương Phja thắp luôn là thứ không thể thiếu trong chiếc làn đi chợ của nhiều người dân ở Cao Bằng. Còn làng nghề làm giấy dó ở Lũng Ỏ, xã Quốc Dân đã có từ rất lâu. Trong khi nhiều làng nghề truyền thống trong tỉnh đang lao đao, có nguy cơ mai một thì nghề làm giấy dó (tiếng Nùng gọi là chỉa sla) lại phát triển ổn định, bền vững và được thị trường ưa chuộng.

Nghề rèn dao ở xóm Pác Rằng, xã Phúc Sen đã nổi tiếng khắp nơi và có lịch sử hàng trăm năm.

Người dân ở xóm Lũng Ỏ cho hay, làm nghề chỉa sla khá vất vả bởi trải qua nhiều công đoạn. Gặp thời tiết thuận lợi thì đỡ tốn công, tốn thời gian hơn. Mỗi bể chỉa sla sử dụng 2kg vỏ cây mạy sla làm được 40 - 50 tao (tệp) chỉa sla thành phẩm. Với giá bán 10.000 đồng/tao mỗi mẻ người dân thu được 450-500 nghìn đồng.

Xóm Lạn Trên, Lạn Dưới cũng nằm cách quốc lộ 3 khoảng 3km thuộc xã Đoài Khôn, huyện Quảng Uyên từ lâu đã nổi tiếng bởi các sản phẩm đan lát từ tre, nứa. 

"Sản phẩm đan lát của xóm Lạn Dưới rất được người tiêu dùng trong vùng ưa chuộng. Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 8 âm lịch là thời điểm những sản phẩm, như: sọt gánh, bồ đựng thóc bán được nhiều nhất. Có những phiên chợ cả làng mang ra chợ bán hàng trăm đôi sọt, bồ đựng thóc, với giá 100 - 120 nghìn đồng/đôi. Nghề đan lát này không những góp phần đem lại thu nhập cho người dân mà còn gìn giữ nét đặc trưng của dân tộc, một phong tục, tập quán canh tác nông nghiệp lâu đời của bà con", ông Vương Văn Đại (60 tuổi) ở xóm Lạn Dưới, đã theo nghề đan lát từ khi 12 tuổi tâm sự.

Nói đến các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Quảng Uyên không thể không kể đến nghề làm ngói máng của người Nùng An ở xã Tự Do gồm 3 xóm Lũng Rì, Lũng Các và Kéo Rỏn. Sản phẩm ngói máng Tự Do nổi tiếng vừa bền vừa đẹp, vì vậy ngói được tiêu thụ khắp các huyện trong tỉnh.

Để làm ra được viên ngói, người dân phải lấy được 3 loại đất đào sâu hơn chục mét ở tận xã Độc Lập mới có, gồm: đất đen, đất đỏ, đất sét về trộn với nhau theo một tỷ lệ nhất định rồi cho trâu giẫm, nhào 3 - 4 ngày mới có thể lên khuôn làm viên ngói. 

Sau đó đem vào lò nung 4 - 5 ngày nữa mới thành phẩm. Viên ngói đẹp, bền phải có màu đỏ đẹp, không cong, vênh và điều này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm làm lâu năm cũng như bí quyết pha trộn đất.

Làng nghề làm ngói máng ở xã Tự Do đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với ngói sản xuất công nghiệp.

Việc gìn giữ, phát triển nghề thủ công truyền thống không chỉ có giá trị về kinh tế, mang lại thu nhập cho bà con, mà còn là một trong những yếu tố rất quan trọng để gìn giữ văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, nghề và làng nghề truyền thống là một bộ phận cấu thành văn hóa dân gian, chứa đựng nhiều yếu tố bản sắc dân tộc.

Mỗi nghề thủ công truyền thống của các dân tộc sinh ra và phát triển đều có câu chuyện, có tuồng tích, gửi gắm trong đó những lời răn dạy, những kiến thức của tiền nhân.

Có thể thấy, những làng nghề truyền thống của huyện Quảng Uyên không chỉ tạo được dấu ấn bởi sản phẩm tinh xảo được kết tinh từ đôi bàn tay khéo léo của người dân, mà qua quá trình lao động đã tạo nên tinh thần đoàn kết cộng đồng. Họ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để gìn giữ nghề của cha ông mình, cũng là gìn giữ nét văn hóa truyền thống riêng của họ.

Bên cạnh một số nghề thủ công truyền thống như rèn nông cụ, làm hương, làm ngói máng, đan lát, dệt vải chàm, làm giấy dó của đồng bào vẫn được trao truyền đến ngày nay, có nhiều nghề trong tỉnh đang bị mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất, do không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất hàng loạt trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nguyên nhân của sự mai một do bà con bản địa thay đổi phong tục quê hương, không còn mặc trang phục dân tộc. Trước đây, nghề làm ngói máng ở Tự Do phát triển hưng thịnh nhất vào các năm 1980 - 1995, sản phẩm xuất hiện ở khắp các huyện trong tỉnh và nhiều địa phương khác. Hiện nay, ngói máng Tự Do đang phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm phibrô xi măng, tôn nội, ngoại trên thị trường.

Cũng như nghề đan lát ở Lạn Trên, Lạn Dưới thuộc xã Đoài Khôn đã có cách đây hàng trăm năm, đến nay cũng đang đứng trước nguy cơ mai một bởi các sản phẩm từ nhựa được bày bán tràn lan, lại gọn nhẹ, tiện lợi hơn, nên nhu cầu về sản phẩm từ tre, nứa giảm. Nghề đan lát trước là nghề thu nhập chính thì nay đã trở thành việc làm thời vụ.

Không riêng gì các làng nghề ở huyện Quảng Uyên mà tất cả các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đều chưa có được sự quan tâm, đầu tư đúng mức để bảo tồn.

Việc phát triển các sản phẩm nghề và làng nghề phải phù hợp với đời sống xã hội, gắn với thị trường tiêu thụ, phải có chính sách hỗ trợ gắn liền với tuyên truyền quảng bá sản phẩm, thương hiệu, gắn làng nghề với những địa danh, địa chỉ văn hóa du lịch; giới thiệu rộng rãi và đưa sản phẩm thủ công truyền thống đến khách hàng, du khách trong và ngoài nước, để những nghề và làng nghề trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được gìn giữ và phát triển, góp phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của đồng bào các dân tộc.

Nông Lưu Vĩnh
.
.
.