Trong con mắt của một người lính Mỹ
Từ ngày 16 đến 18/12/2013, Hội Nhà văn Việt Nam đã triển lãm tranh của nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, người đã được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp văn hóa của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và Giải thưởng Phan Chu Trinh về lĩnh vực Việt Nam học.
Nhà thơ Kevin Bowen, nguyên Giám đốc Trung tâm William Joiner, ĐH Masachusetts, Hoa Kỳ, là bạn thân của Thượng nghị sĩ John Kerry. Và Thượng nghị sĩ John Kerry là Chủ tịch danh dự của Trung tâm William Joiner. Kevin Bowen đã tác động một cách mạnh mẽ và có hiệu quả đối với John Kerry và một số chính khách Mỹ để họ thúc đẩy việc xóa bỏ cấm vận Việt
Trong suốt mấy chục năm qua, Kevin Bowen và Trung tâm William Joiner đã tổ chức hằng năm đưa các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam đến Mỹ để nói với trí thức và công chúng Mỹ về đất nước, con người văn hóa và chính sách của Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng tình bạn và hợp tác với Hoa Kỳ nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Kevin Bowen cũng cùng với các nhà văn của Trung tâm William Joiner đón tiếp các đoàn nhân chứng chất độc da cam đến Mỹ và kêu gọi trí thức và công chúng Mỹ ủng hộ những nạn nhân chất độc da cam. Cũng hơn 20 năm qua, gia đình Kevin Bowen đã đón tiếp và chăm sóc hơn 100 nhà văn, học giả, nghệ sỹ Việt Nam trong ngôi nhà của mình, cho dù bị đe dọa bởi những người Mỹ cực đoan hoặc chống Cộng. Ông đã phải đổi nhà ở và thay điện thoại nhiều lần.
34 bức chân dung sơn dầu ông vẽ là chân dung các nhà văn, học giả, nghệ sỹ Việt Nam đã đến Mỹ trong hơn 20 năm qua. Mỗi bức tranh kèm theo những dòng ký ức của ông về nhà văn, học giả và nghệ sỹ đó. CSTC xin trân trọng giới thiệu một số bức tranh và ký ức của ông để chúng ta thấy được trong con mắt của một người lính Mỹ, hình ảnh những “kẻ thù” cũ của nước Mỹ hiện lên như thế nào
Nhà thơ Chính Hữu
Nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà thơ Nguyễn Duy, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. |
Chính Hữu, cùng với Vũ Tú
Nhà văn Nguyễn Khải
Nguyễn Khải là một trong vị khách đầu tiên của chúng tôi. Luôn ăn mặc chỉnh tề, mang theo vừa đủ sự hòa trộn giữa trang trọng và dân dã, ông dường như vừa bước ra từ một khoảng không đã biến mất. Tôi nhớ là vào năm 1989, ngay cả sau khi bị tấn công bằng vũ lực và lời nói sau một cuộc nói chuyện tại Thư viện công cộng
Nhà thơ Phạm Tiến Duật
Tôi vẽ bức chân dung này từ một bức ảnh năm 1990 khi ông chụp với một nhóm nhỏ cùng Hữu Thỉnh, Trần Minh Hồ và một vài người khác. Khi đó chúng tôi thường ở Hồ Tây, chỉ tới sau này khi ở trung tâm Hà Nội, tôi mới biết tới sự nổi tiếng của ông. Chúng tôi đang ngồi tại bàn ăn, khi một bài hát được phát trên radio, dần dần mọi người đều hướng về phía bàn chúng tôi nơi tác giả nhà thơ đang ngồi. Ông đã hát bài hát đó, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, cho một nhóm khán giả tại
Nhà thơ Thu Bồn
Tôi không nghĩ bất kỳ ai từng gặp Thu Bồn có thể quên được ông. Sự chói lọi của ông được tôn lên bởi sự hiền lành và nhã nhặn khiến mọi người yêu quý ông. Vào mùa hè ông ở
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến
Tôi từng đọc các bài viết của giáo sư Hiến trước khi ông đến
Nhà văn Vũ Tú
Khi tôi nói với Bruce Weigl rằng, tôi đang vẽ một bức chân dung của Vũ Tú
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng
Vì một vài lý do, khi tôi vẽ Sáng, tôi cảm thấy như mình đang cố nắm bắt một sức mạnh có thể có của một con người. Mỗi lần gặp Sáng, ông luôn tỏ ra là trung tâm của một vòng tròn năng lượng lớn. Mọi người gặp ông đều biết đến tiếng cười của ông. Tôi luôn liên hệ Sáng với âm nhạc. Tại Boston, tôi vẫn nhớ lúc ngồi ngoài vườn khi ông hát những bài hát cũ của Trịnh Công Sơn cùng những người bạn. Tại Sài Gòn, tôi vẫn nhớ lúc lắng nghe piano của con gái một người bạn từ cửa sổ vào một con ngõ nhỏ khi chúng tôi ngồi ngoài đó quay thịt lợn. Chúng tôi đã có rất nhiều buổi tối muộn với nhau, bao gồm cả những hôm tôi quan sát ông chơi bóng rổ ở sân sau nhà tôi. Tôi cố gắng nắm bắt những điều đó trong bức chân dung đầu tiên. Rồi sau khi tới thăm ông tại nhà mới, nhìn thấy chiếc võng rừng cũ của ông trong phòng làm việc. Bàn làm việc với những bức ảnh ông hồi trẻ trong rừng, tôi quan sát ông ôm đứa cháu mình. Lúc đó, tôi biết là mình cần phải vẽ một bức chân dung thứ hai của ông khi còn trẻ.
Nhà văn Nguyên Ngọc
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Nguyễn Khải, nhà thơ Lương Tử Đức. |
Dù nay đã là một nhà văn lớn tuổi, Nguyên Ngọc dường như không bao giờ già đi. Tôi vẫn còn nhớ lần quan sát gương mặt ông trở nên đầy sức sống lần đầu tôi phỏng vấn ông năm 1992, đôi mắt ông sáng lên khi ông kể về cuộc đời mình trong chiến tranh và cái ngày ông thấy gương mặt vợ mình giữa những tù nhân được thả nhiều năm sau khi ông tưởng bà đã chết. Tôi còn nhớ 10 năm sau đó, vợ tôi, các con tôi và tôi ngạc nhiên quan sát ông và Trần Văn Thủy sắp xếp một bàn ăn ở sân sau nhà khi chúng tôi đang lóng ngóng chuẩn bị nấu ăn ngoài trời. Ngọc bất ngờ xuất hiện, còn tôi đang băn khoăn không hiểu sao tôi có thể vừa tiếp khách vừa chuẩn bị đồ ăn cùng một lúc. Không có vấn đề gì, Ngọc tham gia vào ngay, vui vẻ giúp đỡ và trò chuyện. Đó là phẩm chất của người đàn ông mà tôi tìm kiếm trong bức chân dung.
Nhà thơ Hữu Thỉnh
Một trong những kỷ niệm sống động nhất của tôi là về Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê và Nguyễn Quang Thiều bước xuống máy bay, bước đi trên con đường vào ngày họ tới
Nhà văn Lê Lựu
Lê Lựu là nhà văn đầu tiên chúng tôi gặp tại Việt
Nhà văn Đỗ
Tôi nhớ rất rõ đêm đầu tiên Đỗ Chu tới thăm
Nhà thơ Nguyễn Duy
Phòng vẽ của tôi chứa đầy phác thảo, chân dung và ảnh của Duy. Ông thường chụp cùng một người bạn. Tuy nhiên, không có bức ảnh nào lột tả được ông hoàn toàn. Rồi tôi nhận ra rằng, đó là bởi vì Duy luôn chuyển động, luôn làm gì đó, luôn nói chuyện, cười đùa, ngồi ở sân sau nhà chúng tôi châm thuốc lá. Tôi vẫn nhớ lần tới thăm ông, mặc dù sau tai nạn xe máy, ông bị gãy chân, ông vẫn tự ngồi dậy và tự di chuyển quanh chiếc bàn gỗ lớn trong nhà ông. Tôi nhớ lần ở
Nhà thơ Ý Nhi
Ý Nhi dường như luôn mang theo mình một nguồn sức mạnh. Một sức mạnh và sự ngay thẳng. Bà gần như một nhân vật bước ra từ truyện cổ tích. Trong tâm trí tôi, bà là một trong những nhà thơ có mối liên hệ lớn nhất với thơ của mình. Tôi nghĩ về “Người đàn bà ngồi đan” và “Thư gửi con”. Tôi không bao giờ quên lần bà đọc thơ cùng Demetria
Nhà văn Lê Minh Khuê
Khuê là nhà văn nữ đầu tiên tới thăm chúng tôi. Tôi nhớ bà rất rõ từ hội nghị năm 1990 khi bà nghiêng người qua bàn và nhìn vào đoàn nhà văn Hoa Kỳ toàn đàn ông chúng tôi và hỏi: “Phụ nữ của các ông đâu?”. Khi bà tới Hoa Kỳ, con gái tôi Lily mới chỉ hai tháng tuổi, rất nhiều kỷ niệm của tôi thời gian đó là về Khuê với hình ảnh bà bế con gái tôi. Có khoảng một tá nhà văn ở chung trong hai căn nhà cạnh nhau tại
Nhà văn Phan Thị Vàng Anh
Nhà văn Vũ Tú Nam, nhà văn Lê Minh Khuê, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh. |
Lần đầu tôi gặp Phan Thị Vàng Anh khi bà đang một mình tới Hoa Kỳ với học bổng của chương trình sáng tác
Nhà văn Bảo Ninh
Khi vẽ Bảo Ninh, tôi cứ nhớ đến vài dòng trong bài thơ Trần Minh Hồ đọc tại hội nghị năm 1990: “Sau trận chiến, khi tôi đi tìm một người bạn, tất cả những người khác đều là người lạ”. Tôi nghĩ, tôi chưa bao giờ thấy cái nhìn tìm kiếm đó trên gương mặt Bảo Ninh. Có người nói rằng, câu chuyện của ông về việc sống sót qua chiến tranh được viết trên gương mặt ông. Nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy rằng gương mặt đó vẫn đang tìm kiếm để viết một câu chuyện khác. Dù là trường hợp nào thì vẫn có một luồng điện ông luôn mang theo, một nguồn năng lượng sẵn sàng bùng nổ ngay cả trong những khoảng khắc lặng lẽ, sẵn sàng tìm đường quay trở lại thế giới, vào từng câu chữ và những câu chuyện của ông. Đó là một sự bùng nổ, mặc dù phần lớn rất thoải mái và đúng đắn. Tôi đã cố mang những điều này vào chân dung ông. Ông là chủ đề của rất nhiều bức chân dung, thậm chí cả bức vẽ đôi dép lê ông để lại nhà chúng tôi ở
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu
Lúc nào cũng có một điều gì đó đặc biệt mỗi lần gặp gỡ Nguyễn Đức Mậu. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, tôi cảm thấy rất gần gũi nhưng cũng có một sự gượng gạo chung. Tôi nghĩ đó là do chúng tôi không thể giao thiệp hoặc không thể giao thiệp một cách chính xác. Cuối cùng, tôi nghĩ, chúng tôi đã giải quyết được bằng ngôn ngữ ký hiệu và mọi chuyện đều ổn, không có gì nhất thiết phải nói ra, ngoại trừ điều kỳ diệu là chúng tôi ở cùng một nơi, chia sẻ không gian, đồ uống, một khu vườn, một bữa cơm. Có lẽ đây là ngôn ngữ bí mật của những người sống sót. Mậu từng là một người lính ở Quảng Trị trong suốt cuộc vây hãm, trong những ngày mà thành phố bị tàn phá. Tôi nhớ những câu chuyện từ một người bạn đã từng ở đó chiến đấu trong Quân đội miền
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
Vì một vài lý do tôi cảm thấy nhất thiết phải vẽ Lâm Thị Mỹ Dạ dưới một bóng cây. Tôi không chắc là tại sao. Lâm Thị Mỹ Dạ với tôi dường như luôn là một người với nội tâm sâu sắc, một người hoàn toàn với bản thân bà ấy, phong cảnh, những con phố hàng cây ở Huế. Bài thơ “Khoảng trời, hố bom” của bà là một trong những bài thơ đầu tiên tôi đã dịch cùng Ngô Vĩnh Hải. Tôi đã kinh ngạc trước cái cách mà bài thơ chuyển câu chyện về một tình huống bạo lực khủng khiếp thành một khoảnh khắc mặc tưởng yên tĩnh, thành một khoảnh khắc chiến tranh mà vượt qua cả chiến tranh. Khi tôi gặp Lâm Thị Mỹ Dạ, tôi đã rất ấn tượng với sự dịu dàng và điềm tĩnh của bà. Dường như bà là hiện thân của những suy nghĩ và cảm xúc chứa đựng trong bài thơ. Khi tôi vẽ chân dung bà, tôi nghĩ về bài thơ đó và những bài thơ khác của bà, nghĩ về một thế giới đầy màu xanh chứa đựng trong những bài thơ của bà, nghĩ về một tối tới thăm nhà bà tại Huế và về những lời bà lặng lẽ nói với tôi khi tôi phỏng vấn bà vào năm 1992: “Hy vọng là một cánh đồng chưa được gặt hái”.
Nhà thơ Nguyễn Quyến
Lần đầu tôi nghe nói tới Nguyễn Quyến là về một nhà thơ trẻ xuất sắc mới xuất bản tập thơ đầu ở tuổi 20. Sau khi Bruce Weigl dịch một vài bài thơ của anh, tôi đã thấy được lý do mọi người phấn khích. Những bài thơ dường như được nói ra từ một thế giới khác. Lần đầu tiên tôi gặp Quyến tại một quán cà phê ở Hà Nội khi anh đang thực hiện một tập sách cho thanh, thiếu niên về cuộc đời của các thiên tài khoa học. Công việc này dường như rất phù hợp với anh. Bản thân Quyến chính là một thiên tài sống trong thế giới đa chiều của anh. Anh dường như có một ngôn ngữ của riêng mình, một kiểu Harry Porter của thơ ca, một người đa tài và là một nhà ảo thuật, có khả năng làm cho gần như mọi thứ xảy ra trong tác phẩm của mình. Tôi đã cố gắng đưa một chút ma thuật đó và sự sốt sắng của tuổi trẻ vào bức chân dung của anh.
Nghệ sỹ Chu Lượng
Kỷ niệm của tôi về những ngày với Chu Lượng là rất nhiều và tất cả đều vui vẻ. Bất kỳ ai từng gặp ông đều có thể nói rằng, ông có rất nhiều điểm đặc biệt, một người đàn ông mà cuộc đời và lẽ sống là cây cầu nối giữa thế giới xưa và nay. Cùng với Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến và Lương Tử Đức, ông đã dựng lên một nhà hát rối nước có thể di chuyển được để mang tới Mỹ. Trong 2 tháng, bốn người họ đã làm việc và biểu diễn cho trẻ em và học sinh quanh Boston, tới thăm các lớp học, dạy các em cách khắc những con cá và ếch gỗ. Tôi đã quan sát trong kinh ngạc khi ông thôi miên lũ trẻ với phong thái của một nhà ảo thuật lớn. Bột màu đất có lẽ là hợp với ông. Màu đen, trắng và xám với sự lao động chân tay phía sau màn ảnh bất ngờ chuyển thành màu sắc rực rỡ trên sân khấu. Sự vô thời gian của cách viết và điêu khắc này, sự kiên nhẫn qua thời gian đã đi vào thực hiện sự bất diệt của lối sống thông qua nghệ thuật.
Nhà thơ, đạo diễn Lương Tử Đức
Tôi vẽ Đức từ một tấm ảnh chụp vào ngày chúng tôi thăm quê Nguyễn Quang Thiều. Ông đã chụp cùng Thiều và hai nhà thơ nông dân già khi họ tới nói chuyện với chúng tôi khi chúng tôi đang đi bộ dọc những con hẻm nhỏ trong làng. Tôi cố gắng nắm bắt lấy niềm vui và đam mê của Đức với tư cách ca sĩ và nhạc công, hi vọng đưa vào hình ảnh của ông ý nghĩa kịch tính của chèo và giai điệu đơn giản của những bài dân ca mà ông luôn có trong mình. Tôi có cảm giác Đức luôn nghe thấy những giai điệu này ngay cả khi ông không hát hay chơi một nhạc cụ nào. Những kỷ niệm đẹp nhất của tôi là với ông, Chu Lượng, Thiều và con trai Thiều khi họ đang ở ngay trên phố chúng tôi tại nhà Herrick, đi qua phố và rẽ ngay vào sân nhà tôi. Âm nhạc bắt đầu ngay lập tức. Đức có thể chọn bất kỳ nhạc cụ nào và chơi ngay được. Ông đã sử dụng thành thạo chiếc sáo thiếc Ailen và chiếc sáo gỗ sử dụng trong giao hưởng chỉ trong khoảng mười phút. Tâm hồn và năng lượng của ông cho nghệ thuật rất dễ lan tỏa