Trong con mắt của một người lính Mỹ

Thứ Sáu, 31/01/2014, 11:12

Từ ngày 16 đến 18/12/2013, Hội Nhà văn Việt Nam đã triển lãm tranh của nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, người đã được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp văn hóa của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và Giải thưởng Phan Chu Trinh về lĩnh vực Việt Nam học.

Nhà thơ Kevin Bowen, nguyên Giám đốc Trung tâm William Joiner, ĐH Masachusetts, Hoa Kỳ, là bạn thân của Thượng nghị sĩ John Kerry. Và Thượng nghị sĩ John Kerry là Chủ tịch danh dự của Trung tâm William Joiner. Kevin Bowen đã tác động một cách mạnh mẽ và có hiệu quả đối với John Kerry và một số chính khách Mỹ để họ thúc đẩy việc xóa bỏ cấm vận Việt Nam và bình thường hóa quan hệ hai nước.

Trong suốt mấy chục năm qua, Kevin Bowen và Trung tâm William Joiner đã tổ chức hằng năm đưa các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam đến Mỹ để nói với trí thức và công chúng Mỹ về đất nước, con người văn hóa và chính sách của Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng tình bạn và hợp tác với Hoa Kỳ nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Kevin Bowen cũng cùng với các nhà văn của Trung tâm William Joiner đón tiếp các đoàn nhân chứng chất độc da cam đến Mỹ và kêu gọi trí thức và công chúng Mỹ ủng hộ những nạn nhân chất độc da cam. Cũng hơn 20 năm qua, gia đình Kevin Bowen đã đón tiếp và chăm sóc hơn 100 nhà văn, học giả, nghệ sỹ Việt Nam trong ngôi nhà của mình, cho dù bị đe dọa bởi những người Mỹ cực đoan hoặc chống Cộng. Ông đã phải đổi nhà ở và thay điện thoại nhiều lần.

34 bức chân dung sơn dầu ông vẽ là chân dung các nhà văn, học giả, nghệ sỹ Việt Nam đã đến Mỹ trong hơn 20 năm qua. Mỗi bức tranh kèm theo những dòng ký ức của ông về nhà văn, học giả và nghệ sỹ đó. CSTC xin trân trọng giới thiệu một số bức tranh và ký ức của ông để chúng ta thấy được trong con mắt của một người lính Mỹ, hình ảnh những “kẻ thù” cũ của nước Mỹ hiện lên như thế nào

Nhà thơ Chính Hữu

Nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà thơ Nguyễn Duy, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu.

Chính Hữu, cùng với Vũ Tú Nam, có lẽ là những người đóng góp lớn nhất cho sự thành công của dự án trao đổi và dịch thuật đầu tiên. Ông nằm trong thế hệ những người tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông đã khiến tôi ngạc nhiên bởi phong thái thành thị thực sự. Tôi không bao giờ quên được ngày ông đưa chúng tôi bản thảo bằng giấy vỏ hành bao gồm tuyển tập các bài thơ viết bởi những người lính trong chiến tranh. Vào năm 1987, mọi thứ vẫn còn khó khăn, thời đó giấy vẫn còn rất hiếm. Những bài thơ ngắn được đánh máy trên từng nửa tờ giấy, bản thảo được gộp lại bởi một kẹp giấy mỏng. Chính Hữu đã nghỉ hưu trước khi cuộc trao đổi bắt đầu và sau đó vì ốm đau nên ông không thể đi lại nhiều, nhưng chúng tôi vẫn luôn hỏi thăm ông. Có lẽ là vì những bài thơ của ông về thành phố và cách ông xử sự, khi tôi nghĩ tới ông, tôi nghĩ tới những bức tranh của Bùi Xuân Phái, một người đàn ông đội mũ lệch di chuyển sống động qua những dãy phố nổi tiếng đó.

Nhà văn Nguyễn Khải

Nguyễn Khải là một trong vị khách đầu tiên của chúng tôi. Luôn ăn mặc chỉnh tề, mang theo vừa đủ sự hòa trộn giữa trang trọng và dân dã, ông dường như vừa bước ra từ một khoảng không đã biến mất. Tôi nhớ là vào năm 1989, ngay cả sau khi bị tấn công bằng vũ lực và lời nói sau một cuộc nói chuyện tại Thư viện công cộng Boston, sườn ông bị thâm tím nặng. Nhưng ông vẫn xử sự với sự tự trọng và điềm tĩnh, không bao giờ thể hiện dù chỉ một chút tức giận hay phẫn uất. Cũng vào năm đó, tôi nhớ rằng ông, Nguyễn Quang Sáng và Lê Lựu đã gặp Thượng nghị sĩ John Kerry, và Nguyễn Khải, như một nhà ngoại giao lịch sự, đã có một cuộc trò chuyện dài với Thượng nghị sĩ bằng tiếng Pháp. Phẩm chất này, một phẩm chất còn hơn cả vấn đề “phong cách” mà tôi đã cố gắng nắm bắt lấy trong bức tranh này được lấy ra từ hình ảnh của một bức ảnh chụp cùng ngày chúng tôi gặp gỡ Thượng nghị sĩ.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật

Tôi vẽ bức chân dung này từ một bức ảnh năm 1990 khi ông chụp với một nhóm nhỏ cùng Hữu Thỉnh, Trần Minh Hồ và một vài người khác. Khi đó chúng tôi thường ở Hồ Tây, chỉ tới sau này khi ở trung tâm Hà Nội, tôi mới biết tới sự nổi tiếng của ông. Chúng tôi đang ngồi tại bàn ăn, khi một bài hát được phát trên radio, dần dần mọi người đều hướng về phía bàn chúng tôi nơi tác giả nhà thơ đang ngồi. Ông đã hát bài hát đó, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, cho một nhóm khán giả tại Boston, khiến cho nhiều người xúc động. Ông đã dành thời gian với chúng tôi đọc những tấm microfilm bao gồm sổ tay của những người lính bị bắt giữ để tìm những lá thư và những bài thơ mà sau này được in tại Việt Nam. Tôi nghĩ bài thơ của ông mà tôi yêu thích nhất vẫn là bài “Cây Cầu” được viết vào tháng 8-1964 khi ông mới 19 tuổi, vào thời điểm “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” dẫn tới việc ném bom miền Bắc. Duật luôn đợi chúng tôi tại Hà Nội, dẫn chúng tôi tới những cuộc phiêu lưu nhỏ. Lần đáng nhớ nhất là chyến đi qua Hồ Tây, trên một con thuyền nhỏ, tới một ngôi chùa - nơi chúng tôi đốt vàng mã và cầu khấn cho những người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ, tôi nghe được giọng ông, cảm nhận được tâm hồn ông mỗi lần tôi tới thăm Việt Nam.

Nhà thơ Thu Bồn

Tôi không nghĩ bất kỳ ai từng gặp Thu Bồn có thể quên được ông. Sự chói lọi của ông được tôn lên bởi sự hiền lành và nhã nhặn khiến mọi người yêu quý ông. Vào mùa hè ông ở Dorchester, ông trở thành huyền thoại với những người hàng xóm với bộ comple trắng và mái tóc bạc dài bay trên phố. Ông đã làm bạn với những người hàng xóm và lũ trẻ nhà họ, làm họ thức khuya lắng nghe những câu chuyện của ông. Kỷ niệm rõ ràng nhất là một đêm trên sông Bé, trong vườn thơ của ông, ngồi bên đống lửa với những cựu binh và gia đình họ từ nhiều lĩnh vực trong chiến tranh, nhà thơ, nghệ sĩ, những góa phụ, nhiều người đã mất chân tay. Tôi quan sát những thân hình khác nhau hiện lên, tỏa bóng bên đống lửa, ca hát, quan sát những người khác, tham gia cùng họ , cầm tay họ, có ai đó cầm một cây nến khi tôi đọc thơ. Bằng cách nào đó, tôi cảm thấy tôi mới chỉ bắt đầu vẽ người đàn ông này, mái tóc có phần hoang dã của ông, với nụ cười ôm lấy tất cả mọi người.

Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến

Tôi từng đọc các bài viết của giáo sư Hiến trước khi ông đến Boston. Từ những bài viết đó, tôi biết rằng, ông là một người chân thành, một nhà học giả thực sự độc lập và luôn đổi mới. Đối mặt với những đe dọa từ những người cuồng tín chống Cộng trong cộng đồng, ông không nhất thiết phải đến Boston, nhưng ông đã đến. Cùng với Giáo sư Nguyễn Huệ  Chi, ông đã làm việc trong văn phòng phía sau trung tâm với Nguyễn Bá Chung. Cả hai người đều không hề nao núng khi cảnh sát bước vào và báo cho họ biết rằng đã có một cuộc gọi dọa đánh bom vào cuộc thuyết trình của ông. Nhưng cả hai đều muốn tiếp tục. Giống như một người ông hiền từ, Hiến là một giáo sư mà tất cả chúng ta đều muốn có. Tất cả mọi người đều yêu quý ông. Tôi nhớ ngày ông tới trường, khi mà những cảnh sát có trách nhiệm giữ an toàn cho ông và họ gặp ông lần đầu, viên chỉ huy của đơn vị thở dài, lắc đầu và nói: “Vậy đây là người đàn ông nguy hiểm nhất đó sao?”. Tôi đã có vinh dự được đến thăm ông tại nhà và văn phòng tại Hà Nội. Gặp ông tại Hà Nội, tôi thấy bao quanh ông là những cuốn sách ông yêu thích, một bức chân dung sơn dầu vẽ Mayakovsky trên tường. Một người đàn ông viết về lịch sử và cuối cùng ông đã làm nên lịch sử.

Nhà văn Vũ Tú Nam

Khi tôi nói với Bruce Weigl rằng, tôi đang vẽ một bức chân dung của Vũ Tú Nam, Bruce nói với tôi rằng, tôi phải nhớ vẽ được nụ cười đó. Đó là nụ cười dường như bay về từ ngọn núi cao xanh thẳm, ôm lấy những người may mắn được thấy nụ cười đó. Tôi luôn nhớ lần đầu chúng tôi gặp nhau, với ông và Chính Hữu. Tôi không bao giờ quên được sự tử tế của họ. Tôi vẫn có thể nghe được tiếng gà gáy ngoài cửa sổ khi tôi phỏng vấn ông năm 1992, khi ông kể cho tôi nghe về lá thư ông viết cho vợ lúc đang gia nhập với những người theo đạo Thiên Chúa miền Bắc. Tôi cố gắng nắm bắt lấy vẻ lịch lãm và sức mạnh bao quanh ông, cũng như cảm giác của một người đàn ông mặc dù truởng thành nhưng cũng không lạ gì với sự hóm hỉnh như một cậu bé.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Vì một vài lý do, khi tôi vẽ Sáng, tôi cảm thấy như mình đang cố nắm bắt một sức mạnh có thể có của một con người. Mỗi lần gặp Sáng, ông luôn tỏ ra là trung tâm của một vòng tròn năng lượng lớn. Mọi người gặp ông đều biết đến tiếng cười của ông. Tôi luôn liên hệ Sáng với âm nhạc. Tại Boston, tôi vẫn nhớ lúc ngồi ngoài vườn khi ông hát những bài hát cũ của Trịnh Công Sơn cùng những người bạn. Tại Sài Gòn, tôi vẫn nhớ lúc lắng nghe piano của con gái một người bạn từ cửa sổ vào một con ngõ nhỏ khi chúng tôi ngồi ngoài đó quay thịt lợn. Chúng tôi đã có rất nhiều buổi tối muộn với nhau, bao gồm cả những hôm tôi quan sát ông chơi bóng rổ ở sân sau nhà tôi. Tôi cố gắng nắm bắt những điều đó trong bức chân dung đầu tiên. Rồi sau khi tới thăm ông tại nhà mới, nhìn thấy chiếc võng rừng cũ của ông trong phòng làm việc. Bàn làm việc với những bức ảnh ông hồi trẻ trong rừng, tôi quan sát ông ôm đứa cháu mình. Lúc đó, tôi biết là mình cần phải vẽ một bức chân dung thứ hai của ông khi còn trẻ.

Nhà văn Nguyên Ngọc

Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Nguyễn Khải, nhà thơ Lương Tử Đức.

Dù nay đã là một nhà văn lớn tuổi, Nguyên Ngọc dường như không bao giờ già đi. Tôi vẫn còn nhớ lần quan sát gương mặt ông trở nên đầy sức sống lần đầu tôi phỏng vấn ông năm 1992, đôi mắt ông sáng lên khi ông kể về cuộc đời mình trong chiến tranh và cái ngày ông thấy gương mặt vợ mình giữa những tù nhân được thả nhiều năm sau khi ông tưởng bà đã chết. Tôi còn nhớ 10 năm sau đó, vợ tôi, các con tôi và tôi ngạc nhiên quan sát ông và Trần Văn Thủy sắp xếp một bàn ăn ở sân sau nhà khi chúng tôi đang lóng ngóng chuẩn bị nấu ăn ngoài trời. Ngọc bất ngờ xuất hiện, còn tôi đang băn khoăn không hiểu sao tôi có thể vừa tiếp khách vừa chuẩn bị đồ ăn cùng một lúc. Không có vấn đề gì, Ngọc tham gia vào ngay, vui vẻ giúp đỡ và trò chuyện. Đó là phẩm chất của người đàn ông mà tôi tìm kiếm trong bức chân dung.

Nhà thơ Hữu Thỉnh

Một trong những kỷ niệm sống động nhất của tôi là về Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê và Nguyễn Quang Thiều bước xuống máy bay, bước đi trên con đường vào ngày họ tới Boston. Họ tới thăm và tạo ra một mối liên kết vẫn tồn tại 30 năm sau. Ban đầu, chúng tôi cũng hơi hồi hộp vì chức vụ cao và quá khứ hoành tráng của ông, nhưng vào một ngày ông vào bếp nhà tôi với chiếc mũ dạ và bộ đồ ngủ thì tôi biết rằng chúng tôi sẽ trở thành bạn lâu dài. Thường vào buổi sáng, ông đưa tôi ra vườn và dạy tôi những bài tập để bảo đảm sức khỏe, vào buổi trưa ông thường kể chuyện và nấu ăn. Ông còn giúp chúng tôi đóng một chiếc gương trước cửa chính để phản lại khí xấu vì ông lo lắng vấn đề phong thủy của nhà tôi. Ông cũng thường  trông chừng mỗi khi con trai tôi chơi ở sân sau. Một trong những kỷ niệm đẹp nhất của tôi mới chỉ hơn một năm trước đây khi chúng tôi cùng đi ăn tối ở Hà Nội. Thỉnh và vợ ông, tôi cùng vợ tôi Leslie, con gái tôi Lily và hai cô con gái ông. Tôi vẽ bức chân dung này cũng với bức ảnh chụp năm 1990 mà tôi dùng để vẽ chân dung Phạm Tiến Duật. Những nhà thơ của chiến tranh, những đôi mắt đầy niềm vui và nỗi buồn, tình bằng hữu, những điều kỳ diệu và sự mất ngủ triền miên.

Nhà văn Lê Lựu

Lê Lựu là nhà văn đầu tiên chúng tôi gặp tại Việt Nam. Ông là người dẫn đường và là đại sứ của chúng tôi. Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, ông dẫn chúng tôi tới thăm những ngôi nhà mù tối vào ban đêm, những ngôi làng của những cựu binh tật nguyền, tới gặp những cựu binh khác, nơi mà chúng tôi xếp những núi bia và thuốc lá, những thứ hàng hiếm trên bàn. Ông là người đầu tiên tới và thăm chúng tôi tại Hoa Kỳ, du lịch quanh đất nước, gặp những cựu binh và nhà văn tại những vùng chưa được thám hiểm. Cũng giống như những gì ông đã làm trước chiến tranh, khi ông được gửi lên biên giới để trao đổi thực phẩm với những người lính khác. Tôi đã tìm những hình ảnh của Lê Lựu thời trẻ cho bức chân dung, cố gắng lột tả người đàn ông có thể là Sài hoặc anh trai ông trong “Thời xa vắng,” có thể là một anh hùng, một cậu bé quê, ngây thơ nhưng cũng thông thái dần qua thời gian, không thoải mái lắm trong bộ comple, nhưng luôn biết rằng ông có nhiệm phụ phải trình diễn.

Nhà văn Đỗ Chu

Tôi nhớ rất rõ đêm đầu tiên Đỗ Chu tới thăm Boston. Ông đến với đầy những tấm toan căng sẵn và màu dầu sẵn sàng để vẽ. Chúng tôi thức khuya mỗi đêm sau khi hoàn thành công việc ban ngày, nói chuyện, trao đổi những câu chuyện khi ông vẽ chân dung Leslie và cả tôi, mà đến giờ vẫn treo trong nhà tôi. Ông không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cứ lần nữa, cho dù chúng tôi có ngăn cản rằng “bức chân dung đã xong rồi”, chúng tôi vẫn quan sát ông đi ra vườn sau và cạo đi tất cả những gì ông vẽ cả ngày. Ông là một trong những người rất thích bạn bè khách khứa với lòng trắc ẩn sâu sắc. Tôi được biết tới câu chuyện về việc ông từ bỏ viết lách trong hơn 5 năm để về quê chăm sóc vợ. Vài năm trước, ông dẫn chúng tôi tới thăm quê nhà Bắc Ninh. Tại đó, chúng tôi thấy một vài bức tranh của ông, căn phòng nơi ông làm việc, chúng tôi lắng nghe và trò chuyện với những nghệ sĩ quan họ địa phương trong một buổi tối kỳ diệu. Năm ngoái, khi chúng tôi tới thăm Khe Sanh, ông thấy một bức ảnh của một nhóm bao gồm ông khi còn trẻ treo trên tường một bảo tàng. Trong bức chân dung này, sự kết hợp của người lính, nhà văn, học giả mang lại hình ảnh và sự ân cần của ông.

Nhà thơ Nguyễn Duy

Phòng vẽ của tôi chứa đầy phác thảo, chân dung và ảnh của Duy. Ông thường chụp cùng một người bạn. Tuy nhiên, không có bức ảnh nào lột tả được ông hoàn toàn. Rồi tôi nhận ra rằng, đó là bởi vì Duy luôn chuyển động, luôn làm gì đó, luôn nói chuyện, cười đùa, ngồi ở sân sau nhà chúng tôi châm thuốc lá. Tôi vẫn nhớ lần tới thăm ông, mặc dù sau tai nạn xe máy, ông bị gãy chân, ông vẫn tự ngồi dậy và tự di chuyển quanh chiếc bàn gỗ lớn trong nhà ông. Tôi nhớ lần ở Connecticut, ông đặt những vật dụng từ quê nhà, những chiếc giỏ mây, thìa, chiếu quanh căn phòng của một trường trung học. Ông giới thiệu với học sinh rằng, ngay lúc đó những vật này có thể chỉ đơn giản là những thứ vô sinh, nhưng với hơi thở của thi ca, chúng có thể trở nên sống động. Trong bức chân dung, tôi cố gắng làm cho ông dừng lại, dù chỉ là một khoảnh khắc để chúng ta có thể thấy được ông, một cậu bé tại một ngôi làng ở Thanh Hóa đang quan sát chiếc xe kéo của ông mình đi xa dần qua quả đồi, một người lính nhìn xuống một lối đi vắng, một nhà thơ nhìn vào chính khuôn mặt mình đang nhìn lại ông từ Đài tưởng niệm cựu binh Việt Nam.

Nhà thơ Ý Nhi

Ý Nhi dường như luôn mang theo mình một nguồn sức mạnh. Một sức mạnh và sự ngay thẳng. Bà gần như một nhân vật bước ra từ truyện cổ tích. Trong tâm trí tôi, bà là một trong những nhà thơ có mối liên hệ lớn nhất với thơ của mình. Tôi nghĩ về “Người đàn bà ngồi đan” và “Thư gửi con”. Tôi không bao giờ quên lần bà đọc thơ cùng Demetria Martinez tại Thư viện công cộng Boston hoặc tại Santa Fe, đọc thơ tại Trung tâm Lannan. Hình ảnh bà xuất hiện trên sự trống trải của sa mạc, những ngôi làng người da đỏ. Trong bức chân dung, tôi cố gắng nắm bắt lấy tư thế khi bà chuẩn bị phát biểu, hình ảnh một người phụ nữ phá vỡ những khuôn mẫu và thần thoại cũ, truyền tải tới chúng tôi những gì bền vững, tốt và có giá trị, cách để bước đi ngay thẳng trên thế giới này.

Nhà văn Lê Minh Khuê

Khuê là nhà văn nữ đầu tiên tới thăm chúng tôi. Tôi nhớ bà rất rõ từ hội nghị năm 1990 khi bà nghiêng người qua bàn và nhìn vào đoàn nhà văn Hoa Kỳ toàn đàn ông chúng tôi và hỏi: “Phụ nữ của các ông đâu?”. Khi bà tới Hoa Kỳ, con gái tôi Lily mới chỉ hai tháng tuổi, rất nhiều kỷ niệm của tôi thời gian đó là về Khuê với hình ảnh bà bế con gái tôi. Có khoảng một tá nhà văn ở chung trong hai căn nhà cạnh nhau tại Dorchester trong vài tuần đó. Sau mỗi cuộc hội thảo và đọc sách, họ thường ngồi ngoài hiên nhà mỗi buổi tối mát trời và sau đó là cuộc gặp gỡ lần đầu của những cựu binh phía “bên kia”. Bản phác thảo này là dựa trên một bức ảnh tôi chụp trong những ngày đó. Trong đó, Khuê, Carolyn Forche, Linda Vandervanter, một y tá tại Việt Nam trong chiến tranh và Lady Borton ngồi quanh một bàn ăn trong bếp nhà tôi. Cái nhìn trên gương mặt mỗi người họ nói với tôi về khả năng chiến thắng của sự thân ái và lòng trắc ẩn chung sau nhiều năm chiến tranh. Tôi đã cố gắng đưa những đìều đó vào bức chân dung. Tôi đã thấy cũng cái nhìn đó nhiều năm sau khi Carolyn và Khuê gặp lại nhau tại Hà Nội.

Nhà văn Phan Thị Vàng Anh

Nhà văn Vũ Tú Nam, nhà văn Lê Minh Khuê, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh.

Lần đầu tôi gặp Phan Thị Vàng Anh khi bà đang một mình tới Hoa Kỳ với học bổng của chương trình sáng tác Iowa. Bà đã tới trường đại học của chúng tôi để đọc tác phẩm. Căn phòng chứa đầy sinh viên và tất cả đều chú ý tới bà. Cũng giống như họ, tôi nghĩ, tôi đã kinh ngạc trước sức mạnh, sự độc lập và tự tin của bà với tư cách một bác sỹ, một nhà văn, một phụ nữ tự đi nước ngoài một mình, hoàn toàn thoải mái với bản thân. Tuy nhiên, vẫn có cảm giác có thứ gì đó chưa lộ ra. Tôi cố gắng nắm bắt lấy khoảng không kỳ bí xung quanh bà, sự hiện diện đầy thử thách và bí ẩn tôi muốn đưa vào tranh vẽ về bà.

Nhà văn Bảo Ninh

Khi vẽ Bảo Ninh, tôi cứ nhớ đến vài dòng trong bài thơ Trần Minh Hồ đọc tại hội nghị năm 1990: “Sau trận chiến, khi tôi đi tìm một người bạn, tất cả những người khác đều là người lạ”. Tôi nghĩ, tôi chưa bao giờ thấy cái nhìn tìm kiếm đó trên gương mặt Bảo Ninh. Có người nói rằng, câu chuyện của ông về việc sống sót qua chiến tranh được viết trên gương mặt ông. Nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy rằng gương mặt đó vẫn đang tìm kiếm để viết một câu chuyện khác. Dù là trường hợp nào thì vẫn có một luồng điện ông luôn mang theo, một nguồn năng lượng sẵn sàng bùng nổ ngay cả trong những khoảng khắc lặng lẽ, sẵn sàng tìm đường quay trở lại thế giới, vào từng câu chữ và những câu chuyện của ông. Đó là một sự bùng nổ, mặc dù phần lớn rất thoải mái và đúng đắn. Tôi đã cố mang những điều này vào chân dung ông. Ông là chủ đề của rất nhiều bức chân dung, thậm chí cả bức vẽ đôi dép lê ông để lại nhà chúng tôi ở Dorchester.

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu

Lúc nào cũng có một điều gì đó đặc biệt mỗi lần gặp gỡ Nguyễn Đức Mậu. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, tôi cảm thấy rất gần gũi nhưng cũng có một sự gượng gạo chung. Tôi nghĩ đó là do chúng tôi không thể giao thiệp hoặc không thể giao thiệp một cách chính xác. Cuối cùng, tôi nghĩ, chúng tôi đã giải quyết được bằng ngôn ngữ ký hiệu và mọi chuyện đều ổn, không có gì nhất thiết phải nói ra, ngoại trừ điều kỳ diệu là chúng tôi ở cùng một nơi, chia sẻ không gian, đồ uống, một khu vườn, một bữa cơm. Có lẽ đây là ngôn ngữ bí mật của những người sống sót. Mậu từng là một người lính ở Quảng Trị trong suốt cuộc vây hãm, trong những ngày mà thành phố bị tàn phá. Tôi nhớ những câu chuyện từ một người bạn đã từng ở đó chiến đấu trong Quân đội miền Nam, khi mà dòng sông chuyển thành màu đỏ của máu. Một nhóm chúng tôi đã mang hoa tới đài tưởng niệm ở đó năm 2011, viết tên chúng tôi vào cuốn sổ lưu niệm. Tôi đã vẽ hai chân dung của Mậu. Một là từ bức ảnh tôi chụp tại Hà Nội khi chúng tôi cùng uống cạnh Hồ Tây gần nơi John McCain bị bắn rơi. Bức thứ hai là từ một bức ảnh tại một buổi gặp gỡ các dịch giả khi ông đội chiếc mũ nồi đặc biệt của mình.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Vì một vài lý do tôi cảm thấy nhất thiết phải vẽ Lâm Thị Mỹ Dạ dưới một bóng cây. Tôi không chắc là tại sao. Lâm Thị Mỹ Dạ với tôi dường như luôn là một người với nội tâm sâu sắc, một người hoàn toàn với bản thân bà ấy, phong cảnh, những con phố hàng cây ở Huế. Bài thơ “Khoảng trời, hố bom” của bà là một trong những bài thơ đầu tiên tôi đã dịch cùng Ngô Vĩnh Hải. Tôi đã kinh ngạc trước cái cách mà bài thơ chuyển câu chyện về một tình huống bạo lực khủng khiếp thành một khoảnh khắc mặc tưởng yên tĩnh, thành một khoảnh khắc chiến tranh mà vượt qua cả chiến tranh. Khi tôi gặp Lâm Thị Mỹ Dạ, tôi đã rất ấn tượng với sự dịu dàng và điềm tĩnh của bà. Dường như bà là hiện thân của những suy nghĩ và cảm xúc chứa đựng trong bài thơ. Khi tôi vẽ chân dung bà, tôi nghĩ về bài thơ đó và những bài thơ khác của bà, nghĩ về một thế giới đầy màu xanh chứa đựng trong những bài thơ của bà, nghĩ về một tối tới thăm nhà bà tại Huế và về những lời bà lặng lẽ nói với tôi khi tôi phỏng vấn bà vào năm 1992: “Hy vọng là một cánh đồng chưa được gặt hái”.

Nhà thơ Nguyễn Quyến

Lần đầu tôi nghe nói tới Nguyễn Quyến là về một nhà thơ trẻ xuất sắc mới xuất bản tập thơ đầu ở tuổi 20. Sau khi Bruce Weigl dịch một vài bài thơ của anh, tôi đã thấy được lý do mọi người phấn khích. Những bài thơ dường như được nói ra từ một thế giới khác. Lần đầu tiên tôi gặp Quyến tại một quán cà phê ở Hà Nội khi anh đang thực hiện một tập sách cho thanh, thiếu niên về cuộc đời của các thiên tài khoa học. Công việc này dường như rất phù hợp với anh. Bản thân Quyến chính là một thiên tài sống trong thế giới đa chiều của anh. Anh dường như có một ngôn ngữ của riêng mình, một kiểu Harry Porter của thơ ca, một người đa tài và là một nhà ảo thuật, có khả năng làm cho gần như mọi thứ xảy ra trong tác phẩm của mình. Tôi đã cố gắng đưa một chút ma thuật đó và sự sốt sắng của tuổi trẻ vào bức chân dung của anh.

Nghệ sỹ Chu Lượng

Kỷ niệm của tôi về những ngày với Chu Lượng là rất nhiều và tất cả đều vui vẻ. Bất kỳ ai từng gặp ông đều có thể nói rằng, ông có rất nhiều điểm đặc biệt, một người đàn ông mà cuộc đời và lẽ sống là cây cầu nối giữa thế giới xưa và nay. Cùng với Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến và Lương Tử Đức, ông đã dựng lên một nhà hát rối nước có thể di chuyển được để mang tới Mỹ. Trong 2 tháng, bốn người họ đã làm việc và biểu diễn cho trẻ em và học sinh quanh Boston, tới thăm các lớp học, dạy các em cách khắc những con cá và ếch gỗ. Tôi đã quan sát trong kinh ngạc khi ông thôi miên lũ trẻ với phong thái của một nhà ảo thuật lớn. Bột màu đất có lẽ là hợp với ông. Màu đen, trắng và xám với sự lao động chân tay phía sau màn ảnh bất ngờ chuyển thành màu sắc rực rỡ trên sân khấu. Sự vô thời gian của cách viết và điêu khắc này, sự kiên nhẫn qua thời gian đã đi vào thực hiện sự bất diệt của lối sống thông qua nghệ thuật.

Nhà thơ, đạo diễn Lương Tử Đức

Tôi vẽ Đức từ một tấm ảnh chụp vào ngày chúng tôi thăm quê Nguyễn Quang Thiều. Ông đã chụp cùng Thiều và hai nhà thơ nông dân già khi họ tới nói chuyện với chúng tôi khi chúng tôi đang đi bộ dọc những con hẻm nhỏ trong làng. Tôi cố gắng nắm bắt lấy niềm vui và đam mê của Đức với tư cách ca sĩ và nhạc công, hi vọng đưa vào hình ảnh của ông ý nghĩa kịch tính của chèo và giai điệu đơn giản của những bài dân ca mà ông luôn có trong mình. Tôi có cảm giác Đức luôn nghe thấy những giai điệu này ngay cả khi ông không hát hay chơi một nhạc cụ nào. Những kỷ niệm đẹp nhất của tôi là với ông, Chu Lượng, Thiều và con trai Thiều khi họ đang ở ngay trên phố chúng tôi tại nhà Herrick, đi qua phố và rẽ ngay vào sân nhà tôi. Âm nhạc bắt đầu ngay lập tức. Đức có thể chọn bất kỳ nhạc cụ nào và chơi ngay được. Ông đã sử dụng thành thạo chiếc sáo thiếc Ailen và chiếc sáo gỗ sử dụng trong giao hưởng chỉ trong khoảng mười phút. Tâm hồn và năng lượng của ông cho nghệ thuật rất dễ lan tỏa

Nguyễn Thị Tuyết Ngân dịch
.
.
.