Thuốc trị COVID-19: Vẫn phải chờ đợi

Chủ Nhật, 24/05/2020, 07:11
Làm sao ngăn chặn virus corona chủng mới xâm nhập các tế bào, không cho chúng nhân ra gấp bội trong cơ thể, kiểm soát được phản ứng của hệ miễn dịch trước sự tấn công của virus. Các nhà khoa học đang cấp tốc nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau, cố tìm ra một liều thuốc công hiệu để trị một căn bệnh mà nay đã khiến hơn 300.000 người chết trên toàn thế giới.


Hiện đang có hàng trăm cuộc thử nghiệm các loại thuốc trị COVID-19 trên thế giới, thế nhưng cho tới nay chỉ mới lóe một vài tia hy vọng thật sự, ấy là chưa kể một số chương trình nghiên cứu đang gặp nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là thất bại, như chương trình Discovery của châu Âu.

Hàng trăm nghiên cứu và những kết quả chưa như mong đợi

Theo Tạp chí Y khoa The Lancet, hiện có hơn 800 cuộc thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành ở nhiều nước khác nhau để thẩm định hiệu quả của hàng chục loại thuốc trị COVID-19. Khoảng hơn 300 thử nghiệm được tiến hành ở Trung Quốc, nơi xuất phát dịch bệnh, 125 thử nghiệm ở Hoa Kỳ, quốc gia bị dịch nặng nhất hiện nay. Riêng tại Pháp thì có khoảng 45 cuộc thử nghiệm.

Nhiều hãng dược đang tham gia cuộc đua tìm thuốc chữa COVID-19.

Mới đây nhất, ngày 12-5, truyền thông Israel đưa tin Công ty Công nghệ sinh học Công ty Bonus Biogroup của Israel đã báo cáo thử nghiệm thành công một loại thuốc để điều trị bệnh nhân mắc bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19. Theo báo cáo, loại thuốc trên có tên MesenCure có thể điều trị bệnh nhân suy hô hấp do virus corona chủng mới (SARV-CoV-2) gây ra và bệnh viêm phổi.

Báo cáo cho hay công ty gần đây đã tiến hành các thử nghiệm tiền lâm sàng trên động vật, cho thấy phổi của chúng đã hoàn toàn khỏe mạnh sau khi được điều trị bằng thuốc này. Công ty hiện đang chờ Chính phủ Israel chấp thuận để tiến hành thử nghiệm trên bệnh nhân mắc COVID-19.

Loại thuốc mới này bao gồm thành phần từ các tế bào gốc lấy từ mô mỡ của người hiến tặng khỏe mạnh. Những tế bào này sẽ được truyền trực tiếp vào máu của bệnh nhân mắc COVID-19, qua đó sẽ giúp giảm viêm nhiễm và phục hồi các mô phổi.

Nhưng nhiều nhà nghiên cứu đang kêu gọi các đồng nghiệp không nên vì quá gấp rút mà bỏ quên tính chất nghiêm túc khoa học của các cuộc thử nghiệm, để không làm dấy lên những hy vọng hão huyền.

Tại Pháp cũng như tại Mỹ, không ít viện nghiên cứu lớn đã gây tranh cãi khi vội vã thông báo các kết quả “khả quan” ngay cả trước khi công bố toàn bộ công trình nghiên cứu.

Các chuyên gia y tế cho rằng chưa có cơ sở khẳng định thuốc trị sốt rét hydroxychloroquine có tác dụng điều trị COVID-19.

Bà Florence Ader, người chỉ đạo cuộc thử nghiệm châu Âu Discovery, đã từng lên tiếng cảnh báo về cái mà bà gọi là “dịch nghiên cứu”, vì có rất nhiều thử nghiệm thất bại ngay từ trong trứng nước do có quá ít bệnh nhân tham gia, hoặc được tiến hành với những phương pháp không có gì bảo đảm.

Có thể điểm qua những loại thuốc chính yếu đang được thử nghiệm. Trước hết là remdesivir, do hãng dược phẩm Gilead của Mỹ phát triển để trị bệnh Ebola, nhưng đã tỏ ra không công hiệu đối với bệnh này.

Tuy vậy, trong phòng thí nghiệm, remdesivir đã chứng tỏ khả năng ngăn chặn các virus khác. Vấn đề là các dữ liệu về công hiệu của thuốc này đối với COVID-19 vẫn còn mâu thuẫn với nhau và vẫn còn tản mát.

Mỹ trông chờ rất nhiều vào remdevisir, cho nên ngày 1-5-2020, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp tốc cấp phép sử dụng loại thuốc này ngoài thử nghiệm lâm sàng trong các bệnh viện, trên cơ sở thử nghiệm rộng rãi trong công chúng. Kết quả cho thấy là tính trung bình, các bệnh nhân COVID-19 nặng hồi phục nhanh hơn 4 ngày so với các bệnh nhân nặng khác (trong vòng 11 ngày thay vì 15 ngày).

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng kết quả này còn quá khiêm tốn, tuy một số nhà nghiên cứu khác thì thấy dù sao remdesivir cũng là một phương tiện để giảm bớt tình trạng quá tải của các bệnh viện. Giới khoa học cũng chỉ trích việc các kết quả của nghiên cứu về thử nghiệm remdesivir không được công bố toàn bộ.

Mặt khác, nghiên cứu cũng không cho thấy là remdesivir đã thật sự làm giảm tỷ lệ tử vong, bởi vì sự cách biệt về tỷ lệ tử vong giữa nhóm bệnh nhân được cho uống thử thuốc (8%) và nhóm đối chứng (11,6%) là quá thấp so với ngưỡng cần thiết để kết quả thử nghiệm có thể được xem là chuẩn xác.

Loại thuốc thứ hai là tocilizumab, được coi là niềm hy vọng cho những ca COVID-19 nặng, vì thuốc này điều hòa phản ứng của hệ miễn dịch, để không gây thêm tác hại cho cơ thể người bệnh. Vào cuối tháng 4, hệ thống bệnh viện Paris (Pháp) thông báo là thuốc tocilizumab làm “giảm đáng kể nguy cơ tử vong hoặc nguy cơ phải vào khoa hồi sức nơi các bệnh nhân COVID-19 nặng”, nhưng họ lại không đưa ra các số liệu cụ thể và cũng không công bố nội dung công trình nghiên cứu.

Hiện các cuộc thử nghiệm khác đang được tiến hành với thuốc  tocilizumab. Nhưng cho dù thật sự có công hiệu, chi phí quá cao của loại thuốc này, cũng như cách điều trị bằng tiêm tĩnh mạch khiến cho rất khó sử dụng phổ biến.

Thứ ba là thuốc trị sốt rét hydroxychloroquine, một loại thuốc đã làm hao tốn rất nhiều giấy mực trong những tháng qua. Theo hai công trình nghiên cứu được đăng trên tạp chí y khoa Anh Quốc BMJ ngày 15-5-2020, hydroxychloroquine dường như không có công hiệu trị COVID-19, cho dù là đối với các bệnh nhân nặng hay nhẹ.

Công trình nghiên cứu thứ nhất, do các nhà nghiên cứu Pháp tiến hành, đã đi đến kết luận là loại thuốc chống sốt rét này không làm giảm đáng kể nguy cơ phải vào khoa hồi sức hoặc nguy cơ tử vong đối với các bệnh nhân nhập viện vì bị viêm phổi do COVID-19.

Trong khi thế giới đã có hơn 4 triệu người nhiễm COVID-19 thì việc nghiên cứu tìm ra loại thuốc chữa càng trở nên cấp bách.

Công trình nghiên cứu thứ hai, do một ê kíp nhà nghiên cứu Trung Quốc tiến hành, cho thấy là thuốc hydroxychloroquine không giúp diệt trừ virus nhanh hơn so với các thuốc chuẩn ở các bệnh nhân COVID-19 nhẹ, thậm chí các phản ứng phụ của thuốc chống sốt rét này còn nặng hơn các thuốc kia. Dựa trên hai kết quả nghiên cứu nói trên, tạp chí BMJ đánh giá là không nên sử dụng hydroxychloroquine như là một loại thuốc phổ biến để trị COVID-19.

Thứ tư là thuốc chống HIV. Các cuộc thử nghiệm kết hợp hai loại thuốc điều trị HIV, lopinavir và ritonavir, vẫn chưa mang lại các kết quả được hứa hẹn. Một nghiên cứu của Trung Quốc được công bố ngày 19-3-2020 đã kết luận là điều trị bệnh nhân COVID-19 bằng thuốc chống HIV không giúp giảm bớt nguy cơ tử vong cũng như không rút ngắn thời gian bình phục. Tuy nhiên, một số dữ liệu cho thấy là thuốc chống HIV có hiệu quả nếu cho bệnh nhân uống sớm.

Chương trình Discovery thất bại?

Khởi động từ cuối tháng 3-2020 với hy vọng nhanh chóng tìm ra một loại thuốc công hiệu để trị COVID-19, cho tới nay chương trình thử nghiệm lâm sàng Discovery của châu Âu vẫn chưa đạt được kết quả nào, do không có hợp tác chặt chẽ giữa các nước châu Âu và do hiệu quả của 4 loại thuốc được thử nghiệm không như là người ta hy vọng lúc ban đầu.

Nguyên nhân chủ yếu đó là số bệnh nhân được thử nghiệm hiện giờ còn quá ít, chỉ có 750 người, gần như toàn bộ là ở Pháp, trong khi mục tiêu đề ra là quy tụ đến 3.200 bệnh nhân ở châu Âu, trong đó có ít nhất 800 người ở Pháp. Lúc đầu có ít nhất 7 quốc gia châu Âu tuyên bố tham gia Discovery, trong đó có Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, nhưng hiện chỉ có duy nhất một bệnh nhân bên ngoài Pháp, ở Luxembourg.

Bác sĩ Jean-Philippe Lanoix, Khoa Bệnh truyền nhiễm, Bệnh viện Amiens, Pháp, nơi mà hai chương trình thử nghiệm trong khuôn khổ Discovery đang được tiến hành, cho biết trong thử nghiệm, bao giờ cũng có một nhóm bệnh nhân không được cho uống loại thuốc nào khác ngoài thuốc trị các triệu chứng, gọi là nhóm “chuẩn” và bốn nhóm kia được cho uống các loại thuốc hydroxychloroquine, remdesivir và hai loại thuốc chống virus khác”.

Giải thích nguyên nhân việc ban đầu thuốc chống sốt rét không được dự trù trong chương trình thử nghiệm Discovery, nhưng sau đó lại được đưa vào, bác sĩ Lanoix cho biết: “Một trong những đặc điểm của chương trình thử nghiệm Discovery là thích ứng với diễn biến của dịch COVID-19, vì thật sự là chúng ta chưa biết nhiều về dịch bệnh này. Những người khởi xướng chương trình đã dự trù sẽ bao gồm những loại thuốc lúc đầu họ không nghĩ là sẽ có công hiệu.

Họ để mở ngỏ cánh cửa, để nếu có những loại thuốc nào xuất hiện trên thị trường, điều mà hiện nay vẫn còn có thể xảy ra, thì sẽ thêm một nhóm bệnh nhân thứ 5, thứ 6 vào các cuộc thử nghiệm lâm sàng. Thuốc hydroxychloroquine, sau khi đã chứng tỏ có phần nào công hiệu đối với một số bệnh nhân, đã được thêm vào để thử nghiệm trên nhóm bệnh nhân thứ 5 trong chương trình này”.

Một khó khăn khác đối với chương trình thử nghiệm Discovery, đó là không có những quy định đồng nhất giữa các nước châu Âu tham gia chương trình này. Trong việc xử lý các dữ liệu của bệnh nhân, nước này có thể có những quy định bó buộc hơn những nước khác, tùy theo các dữ liệu đó có thuộc diện bí mật thông tin sức khỏe hay không, ai được quyền xử lý các dữ liệu đó. Đó là chưa kể tới định nghĩa của mỗi nước cũng khác nhau.

Trong chương trình Discovery có 5 nhóm, trong đó có một nhóm gọi là nhóm chuẩn, nhưng các nước và các bệnh viện không hẳn là có chung một định nghĩa về nhóm điều trị chuẩn. Chẳng hạn như tại Italia, một số bệnh viện và một số vùng đưa thuốc hydroxychloriquine và thuốc remdesivir vào nhóm điều trị chuẩn. Như vậy nhóm chuẩn của nước này lại khác với của những nước kia, điều này chắc chắn gây ra các vấn đề.

Những khó khăn của chương trình Discovery cũng phản ánh một thực tế là các nước châu Âu không thể có hành động chung, nhất là khi khi đối đầu với một khủng hoảng y tế khẩn cấp như dịch COVID-19.

Minh Trang (tổng hợp)
.
.
.