Nhà khoa học huyền thoại và nghị lực phi thường

Thứ Bảy, 10/12/2011, 15:54

Nhà bác học huyền thoại Stephen Hawking không chỉ được kính phục vì trí tuệ uyên bác, tác giả những giả thuyết táo bạo về sự hình thành vũ trụ mà còn được kính trọng vì nghị lực phi thường.

Nhà khoa học vũ trụ vĩ đại

Vượt qua nỗi đau bệnh tật để vươn lên thành nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới. Ông có bộ óc lớn trong thể xác teo nhỏ. Chỉ còn da bọc xương vì bệnh teo cơ, toàn thân tê liệt, bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, cổ ngoẹo về một phía và chỉ cử động được hai ngón tay của bàn tay trái - đó là hình ảnh một trong những nhà thiên văn lớn nhất thời đại Stephen Hawking. Phương tiện thông tin duy nhất là chiếc máy tổng hợp giọng nói do một người bạn thiết kế riêng cho ông, hoạt động bằng cách gõ nhẹ lên các con chữ của chiếc máy tính dính liền vào xe. Mà đối với ông, cái động tác hết sức đơn giản này cũng vô cùng khó khăn.

Trong tư thế bất động ấy, với một bộ não đã bị tổn thương nhưng lại có một năng lực sáng tạo mãnh liệt phi thường, Hawking không ngừng phiêu lưu trong những dải ngân hà, người ta hay ví von, ông có thể bay cao hơn cả các phi hành gia, với đôi mắt kính thường, ông có thể nhìn vào sâu thẳm của vũ trụ hơn cả các loại kính viễn vọng của Galile và có thể biết được những gì đã xảy ra cách đây hàng triệu, hàng tỷ năm ánh sáng.

Sống ở thời đại khác, có lẽ bộ óc kiệt xuất của ông khó mà phát huy được. Từ năm 21 tuổi, chàng sinh viên Đại học Oxford đã có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh Lou Gehric, làm huỷ hoại tuỷ sống và phần não có chức năng điều khiển hoạt động của cơ bắp, loại bệnh hiểm nghèo chưa tìm ra cách chữa mà khi phát hiện ra, chính bác sĩ đã kết luận ông không thể sống quá 2 năm rưỡi nữa. Thế nhưng, ông đã vượt qua số phận bằng một nghị lực phi thường để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giải đáp những câu hỏi ngàn đời của nhân loại. Chúng ta từ đâu tới? Thế giới bắt đầu ra sao? Vũ trụ do đâu mà có?… Thời gian có "chảy" ngược không?

Vì thế, tuy sống trong tình trạng bất động như vậy, năm nay đã 68 tuổi, trí tuệ của Hawking vẫn sáng suốt phi thường. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, chàng sinh viên nhỏ con và gầy gò đã luôn luôn làm cho các thầy lúng túng. Stephen Hawking luôn bị các "lỗ đen" mê hoặc. Đó là các vật thể kỳ lạ, tạo ra do sự tàn lụi của các vì sao. Dùng những phương trình tương đối của Einstein, ông đã chứng minh về mặt toán học là tại trái tim của những lỗ đen, là những "cái kỳ quặc" - những điểm không kích thước, khối lượng rất lớn và do đó sức hút cực mạnh, đến mức không một vật thể nào, kể cả ánh sáng có thể thoát được ra ngoài.

Vượt qua đau đớn thể xác do bệnh tật hành hạ, Hawking vẫn hoàn thành được luận án tiến sĩ về vũ trụ học mà ông từng đeo đuổi. Bất chấp sự tàn tật, trường đại học danh tiếng nhất nước Anh là Cambridge vẫn bổ nhiệm ông làm Trưởng khoa Toán - Lý, một vị trí mà trước đây chính nhà bác học Newton đã từng giữ. Trong quá trình hoạt động khoa học của mình, Hawking đã vượt qua Thuyết tương đối, Cơ học lượng tử, Lý thuyết về Vụ nổ lớn Big-bang và đã trở thành "siêu sao" trong bầu trời khoa học. Ông được coi là một trong những nhà vật lý lớn nhất hiện nay kể từ khi Einstein qua đời.

Cái tên Stephen Hawking trở nên đồng nghĩa với "lỗ đen". Toàn bộ những công trình của ông được đánh giá là "chiếc chìa khoá mở cửa vào vũ trụ". Ngoài hoạt động nghiên cứu, Hawking còn viết sách. Cuốn "Lược sử thời gian" của ông viết năm 1988 được liệt vào những cuốn sách bán chạy nhất thế giới với tổng số bản in lên tới 10 triệu bản kể cả những bản được dịch ra 40 thứ tiếng, trong đó có bản dịch ra tiếng Việt. Nghĩa là chỉ đứng sau Kinh thánh và một số vở kịch của Shakespeare. Bộ sưu tập những giải thưởng khoa học, học vị "Tiến sĩ danh dự" và các danh hiệu khoa học ông được trao tặng có lẽ phong phú nhất hành tinh.

Luôn muốn phản biện mình, có thể nói tài năng của Hawking không nở rộ được nhiều đến thế nếu thiếu vai trò của vợ ông, bà Jane Wilde, một cử nhân ngôn ngữ học. Biết rõ căn bệnh hiểm nghèo có thể dẫn đến cái chết bất cứ lúc nào, bà Jane vẫn quyết định lấy ông, mang lại cho ông niềm hy vọng và ý chí để tiếp tục nghiên cứu trong khi sức khoẻ ngày càng tồi tệ. Đến khi Hawking bị liệt hoàn toàn, bà bỏ hết công việc, tình nguyện làm "vú nuôi" để chăm sóc ông 24/24 giờ mỗi ngày.

Là một nhà khoa học chân chính, Hawking không bao giờ bảo thủ, ông bảo vệ chắc chắn những thuyết mình đưa ra và đã được không ít người thừa nhận. Đưa ra lý thuyết về lỗ đen trong suốt 30 năm qua, ông luôn luôn trăn trở, kiểm chứng nó qua thực nghiệm, nhất là khi Kính thiên văn vũ trụ Hubble của NASA (Cục Không gian và Du hành vũ trụ Hoa Kỳ) được phóng lên bầu trời liên tục gửi về trái đất những kết quả đo đạc mới nhất. Nỗi băn khoăn, giày vò ông đến mất ăn mất ngủ, liệu điều mình khẳng định có đúng không và đúng đến mức độ nào?

Với tinh thần khoa học nghiêm túc, ông đã từng thú nhận một sai lầm của mình năm 1985 và đến tháng 7 năm 2004, một lần nữa giới khoa học lại chấn động - ông lại thừa nhận thuyết của mình còn thiếu thuyết phục, khi cho rằng các xoáy đen nuốt chửng vật chất và hình thành khi các ngôi sao bị huỷ diệt, và vật chất đang biến mất qua lỗ đen tới một vũ trụ mới. Ông công khai thừa nhận mình đã không đúng "dù rất tiếc đã làm những nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng thất vọng" vì nhiều cuốn tiểu thuyết viễn tưởng đã sử dụng ý tưởng này của ông.

Ông đưa ra một hướng tiếp cận khác tuy không thú vị bằng, và cho rằng, lỗ đen không phá huỷ mọi thứ mà nó hút vào, trái lại, nó phát ra vật chất và năng lượng dưới dạng bị biến đổi. Việc bàn luận đúng sai thuộc về các nhà bác học lớn vì chuyên môn quá sâu. Chúng ta chỉ thấy ở đây một tinh thần khoa học trung thực, sẵn sàng phủ nhận chính mình để đi đến những gì mình cảm thấy gần với chân lý khách quan hơn.

Những bù đắp của cuộc sống

Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh, đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Cha mẹ ông là Frank và Isobel Hawking, trước chiến tranh thế giới thứ hai họ sống ở miền Bắc London nhưng sau đó chuyển đến Oxford. Hai năm cuối ở trung học St Albans, Oxford, Hawking rất thích thú với môn toán vì có cảm hứng từ một người thầy ở trường này. Nhưng cha ông, một dược sỹ lại phản đối ý kiến của con trai mà muốn ông học ngành hóa học. Một phần bị thuyết phục bởi người cha, sau khi tốt nghiệp, Hawking theo học tại Đại học Oxford, đây chính là trường mà cha ông từng theo học trước đây. Nhưng trường này không có ngành toán, chính vì thế mà ông theo học ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó, ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án Tiến sỹ về vũ trụ học.

Stephen Hawking và Tổng thống Mỹ Obama.

Lĩnh vực chính của Hawking là nghiên cứu Lý thuyết vũ trụ học và Hấp dẫn lượng tử. Năm 1971, ông đưa ra các công trình toán học ủng hộ cho lý thuyết Vụ nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ: nếu Lý thuyết tương đối rộng là đúng thì vũ trụ cần phải có một điểm kỳ dị, một điểm khởi đầu trong không gian. Ông còn cho rằng, sau vụ nổ lớn, các hố đen nguyên thủy hoặc các hố đen siêu nhỏ được hình thành. Ông chứng minh rằng diện tích bề mặt của hố đen không bao giờ giảm, rằng tồn tại một giới hạn trong quá trình phát xạ khi các hố đen va vào nhau, và rằng một hố đen không thể bị tách thành hai hố đen riêng biệt. Năm 1974, các tính toán của ông cho thấy các hố đen có thể tạo và phát ra các hạt hạ nguyên tử cho đến khi chúng cạn kiệt năng lượng và bị nổ tung. Lần đầu tiên ông đưa ra bức xạ Hawking có liên quan đến sự hấp dẫn, cơ học lượng tử, và nhiệt động lực học. Năm 1981, Hawking cho rằng, vũ trụ không có biên nhưng lại hữu hạn trong không thời gian và năm 1983 ông đã chứng minh điều này bằng toán học.

Hawking cho biết người ta thường xuyên hỏi ông: "Ông cảm thấy thế nào về căn bệnh của mình?". Câu trả lời của nhà bác học là: "Không thấy gì nhiều. Tôi cố gắng sống càng bình thường càng tốt, không nghĩ về hoàn cảnh của mình, không nuối tiếc những việc mà bệnh tật đã khiến tôi không thể làm được". Hawking khẳng định: "Rõ ràng có nhiều người còn khổ hơn tôi… Mỗi khi sắp sửa có ý than thân trách phận, tôi lại nghĩ đến điều đó".

Có người hỏi: "Ông sẽ làm gì nếu không bị liệt?", Hawking đáp: "Tôi từng nghĩ mình sẽ trở thành một chính trị gia". Ông còn nói đã từng mong ước được làm thủ tướng Anh. "Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi cảm thấy công việc của tôi chắc chắn sẽ lâu dài hơn so với công việc của một vị thủ tướng".

"Con người không bao giờ được để mất hy vọng" - đó là những gì nhà bác học người Anh vĩ đại luôn tâm niệm trong cuộc sống của mình.n

Nhà bác học huyền thoại Stephen Hawking không chỉ được kính phục vì trí tuệ uyên bác, tác giả những giả thuyết táo bạo về sự hình thành vũ trụ mà còn được kính trọng vì nghị lực phi thường

Nam Phong
.
.
.