Kẻ giết người tàn ác nhất lịch sử Australia

Thứ Sáu, 18/06/2010, 16:30
Nhô ra từ đống rác là gót chân của một người phụ nữ vẫn còn đi giày. Nửa giờ sau, cảnh sát địa phương ở Bowral, một thị trấn khá nhỏ, nép mình ở cao nguyên phía Nam của Sydney có mặt tại hiện trường.

Cái chết không còn nguyên xác

Thứ bảy ngày 19 tháng 09 năm 1992, đó là một buổi sáng mùa xuân rực rỡ ở Sydney, Ken Seily và Keith Caldwell chạy bộ vào những con đường mòn trong rừng Belangalo, nơi hai ông sống và làm việc gần đó. Ở khắp mọi nơi xung quanh đường chạy là cây cối tươi tốt, những hàng bạch đàn cao chót vót, những bụi cỏ mơn mởn xanh tươi, xa xa có những khu rừng trồng thông đu đưa theo gió. Khung cảnh của mùa xuân thật đẹp.

Sau khi chạy được khoảng 30 phút hai người đã bỏ cách xa nhau chừng 100m. Ken chạy trước, ngay sát bên đường chạy, ông thấy xuất hiện một tảng đá to, chạy gần tới nơi, Ken ngửi một mùi gì đó rất khó chịu. Ông nghĩ rằng mùi đó có thể là một xác động vật thối rữa. Trong khu rừng có rất nhiều các loài động vật hoang dã, chuột túi hay những con nai và thậm chí là những con chó rừng chết. Ken hầu như không chú ý đến việc tìm nguyên nhân gây ra mùi hôi đó, ông vẫn chạy. "Bạn có thể ngửi thấy mùi gì không?". Keith gọi vọng ra từ phía sau bên trong tảng đá. Họ dừng chạy và bắt đầu tìm kiếm.

Bước gần tới tảng đá, hai người đàn ông cảm thấy mùi đặc biệt nồng nặc hơn, nhìn xung quanh thấy xuất hiện một bộ xương và một búi tóc. Tới lúc đó họ chưa dám chắc rằng đó là cơ thể của một con người, cho đến khi họ nhìn thấy một phần của một chiếc áo sơ mi màu đen họ mới cùng nhau khẳng định đó là một thi thể. Cả hai bắt đầu quan sát xung quanh khu vực đó, họ dừng lại và nhìn chằm chằm xuống mặt đất cố gắng để hiểu những gì họ đã nhìn thấy. Nhô ra từ đống rác là gót chân của một người phụ nữ vẫn còn đi giày. Họ cẩn thận đánh dấu vị trí trên bản đồ và quay lại quãng đường cũ. Nửa giờ sau, cảnh sát địa phương ở Bowral, một thị trấn khá nhỏ, nép mình ở cao nguyên phía Nam của Sydney được thông báo. Cảnh sát cùng thám tử địa phương ngay lập tức có mặt tại hiện trường.

Công việc điều tra

Tìm kiếm khắp khu vực, hai cảnh sát là Roger Gough và Suzanne Roberts tìm thấy một số bộ phận của cơ thể có khoảng cách  so với bộ xương trước khoảng 35m. Qua xác minh, hai thi thể đó là của hai du khách người Anh, Caroline Clarke và Joanne Walters. Họ đã bị mất tích năm tháng sau khi rời khỏi Sydney đi du lịch về phía Nam. Điều tra các xác chết, chuyên gia khẳng định rằng, các vụ giết người đã thực hiện ở một mức độ rất tàn ác và dã man. Joanne Walters bị đâm vào tim và phổi với một vết thương rất sâu đi thẳng vào xương sống của cô. Caroline Clarke cũng bị đâm và bị bắn vào đầu nhiều phát.

Thanh tra Bob Godden và Trung sĩ Steve McClennan được bổ nhiệm phụ trách điều tra vụ việc này. Sau khi đánh giá ban đầu về hiện trường vụ án, McClennan suy đoán rằng, các thi thể đã được tìm thấy trong một khu vực bị cô lập, họ có thể bị giết bởi những người sống gần đó.

Khi xem xét thi thể của Joanne Walters, đồ trang sức trên cả hai tay vẫn còn và cô vẫn mặc quần jean màu xanh và đi đôi giày đen. Các nút cài trên quần vẫn còn gắn chặt. Cách khoảng 10m từ thi thể của Caroline Clarkes có sáu tàn thuốc đã được tìm thấy. Rõ ràng hung thủ đã dành khá nhiều thời gian đứng tại hiện trường. Không xa từ những tàn thuốc họ tìm được một vỏ đạn súng trường cỡ nòng 0,22mm và bên cạnh nó là một miếng nhựa màu xanh lá cây kích thước bằng một đồng xu lớn. Từ mặt đất ngay bên dưới đầu Caroline, ba viên đạn đã được thu hồi. Trong năm ngày kế tiếp, bốn mươi cảnh sát đã tìm kiếm trên diện rộng nhưng đã không tìm thấy bất kỳ một vật dụng cá nhân của hai cô gái. Nguyên nhân của cái chết

Các thi thể đang bị phân hủy còn lại của hai cô gái đã được cẩn thận mang ra khỏi rừng và vận chuyển đến nhà xác khu ngoại ô của Sydney. Tiến sĩ Peter Bradhurst được giao trọng trách khám nghiệm các tử thi đó. Kiểm tra thân thể Joanne cho thấy, không có dấu hiệu của sự thâm nhập âm đạo hoặc hậu môn.

Trên ngực Joanne cho thấy, cô bị ba vết đâm vào phía bên phải, một nhát ở vị trí bên trái và một vết đâm ở cổ. Tổng cộng trên toàn bộ cơ thể Joanne đã chịu 14 vết đâm rất nguy hiểm. Rõ ràng những gì đã thấy chứng minh một điều rằng, hung thủ đang ở trạng thái rất điên cuồng khi tấn công nạn nhân. Hai xương sườn của Joanne đã hoàn toàn bị đứt. Bàn tay và cánh tay không có những "vết thương phòng thủ". Điều thông thường, những trường hợp bị tấn công bằng dao thì nạn nhân thường cố gắng tránh đỡ bằng tay. Điều đó cộng với những gì đã tìm thấy có thể xác định được rằng, hung thủ đã thắt cổ nạn nhân trước khi ra tay sát hại.

Khám nghiệm trên cơ thể Caroline, Tiến sĩ Bradhurst nhận thấy có tổng cộng 10 lỗ thủng trên hộp sọ, các lỗ thủng đó được xác định là do đạn bắn, nhưng chỉ tìm 4 lối ra của các đầu đạn. Bốn đầu đạn đó được xác định là đạn của đầu súng trường cỡ lòng 22mm. Mặt trước của khuôn mặt và quai hàm bị đập vỡ, có thể bị vỡ do đạn bắn. Caroline cũng đã bị một vết đâm vào ngực phía bên phải trùng với những vết thương của nạn nhân đầu tiên. Những viên đạn còn lại được lấy ra khỏi hộp sọ và chuyển cho Trung sĩ Gerard Dutton, một chuyên gia về súng đạn. Dutton sau khi xem xét có nhận định rằng, tất cả những đầu đạn đều được bắn ra từ một khẩu súng. Nghiên cứu các vết bắn, Dutton khẳng định những vết thương do bắn từ ba hướng khác nhau. Ông cũng cho rằng, kẻ giết người có thể đã đứng tại chỗ và bắn một loạt để ngăn chặn sự di chuyển của nạn nhân.

Hồ sơ của kẻ giết người

Xem xét hiện trường, Tiến sĩ Rod Milton cho biết thêm, hung thủ có thể là người đã quen thuộc với khu vực này. Từ kinh nghiệm cho thấy, kẻ giết người rất hiếm khi hoạt động trong môi trường xung quanh không quen thuộc. Điều này không phải là tình cờ giết người mà là một kế hoạch. Đi bộ giữa hai vị trí của nạn nhân, ông quan sát rất chi tiết và tự hỏi. Điều gì đã được tìm thấy? Milton suy nghĩ các biến thể giữa hai người chết.

Caroline Clarke bị giết chết trong khi bị một mảnh vải quấn quanh đầu. Các góc của hướng bắn của viên đạn đầu tiên chỉ ra rằng, có thể hung thủ đã bắn trong khi cô đang quỳ. Quần áo của cô vẫn còn nguyên vẹn. Hung thủ giết chết cô ấy đã không có động cơ tình dục. Vết thương trên cơ thể của cô có thể được gây ra sau khi đã chết, có thể vết đâm của một kẻ đồng lõa nào đó.

Trong khi đó kiểm tra cơ thể Joanne Walters cho thấy, khi hạ sát nạn nhân, hung thủ đang rất giận dữ và không kiểm soát được hành động của mình. Kiểm tra quần áo của nạn nhân, Milton nghĩ rằng đây là một cuộc tấn công về tình dục. Áo sơ mi và áo ngực đã được đẩy lên, nhưng các khuy cài vẫn còn gắn chặt. Khóa của quần jeans đã bị mở, không có quần lót bên trong và khi tìm kiếm quanh khu vực cũng không thấy. Milton lý giải rằng, kẻ giết người đã thực hiện hành vi tình dục trước hoặc sau khi nạn nhân chết. Đồ lót này có thể đã bị cắt đứt và mang đi như là một chiến công cần ghi nhận.

Khi được cảnh sát hỏi động cơ gì để hung thủ giết người dã man như vậy? Milton thốt lên một câu "điều thích thú". Ông tin rằng, sẽ có hai kẻ giết một trong những tên lớn tuổi hơn đã chi phối kẻ nhỏ tuổi hơn. Milton cho rằng, chúng có thể là anh em, rất quan tâm tới súng và săn bắn. Thống kê tất cả các sự việc, Tiến sĩ Milton ghi "hồ sơ kẻ giết người" ở dạng điểm như sau.

Sống ở vùng ngoại ô của một thành phố. Tham gia vào một mối quan hệ không ổn định. Có một lịch sử của đồng tính luyến ái hoặc tình dục. Có một tiền sử phạm tội và chống lại chính quyền. Độ tuổi vào khoảng giữa 20-30.

Sự ám ảnh của người đàn ông

Bruce Pryor là một cư dân địa phương và đã vào rừng Belangalo nhiều lần trong những năm qua để lấy củi. Rừng Belangalo đã trở thành một nơi đặc biệt với Pryor. Ông biết rất nhiều các đường mòn, nhưng vẫn còn nhiều chỗ ông chưa đi qua. Pryor đã xem các tờ báo nói về vụ giết người trong thời gian vừa qua, từ lúc biết được, tâm trí của Pryor luôn hình dung ra những cảnh tượng hãi hùng đó, trong thời gian này, mỗi khi ông vào rừng Pryor thường quan sát và tìm kiếm khắp khu vực mà ông đốn củi.

Vào một buổi sáng, Pryor thức dậy lái xe vào rừng, nhưng ông không định hướng được mình sẽ đi đâu. Lái lòng vòng một lúc, Pryor đến một ngã ba, thường thì ông sẽ rẽ phải nhưng không hiểu sao ông lại đánh tay lái sang trái.

Đi một lúc, con đường đã dẫn ông đến vào một khu vực núi đá trọc giáp với biển. Pryor rời khỏi chiếc xe của mình và lang thang xung quanh khu vực vừa tới. Tới một khoảng đất trống, Pryor dừng lại và nhìn chằm chằm vào mặt đất, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Hiện tại trước mặt ông là một đống xương lớn, nhìn nó giống với xương của một con người. Ông lắc đầu cố gắng để suy nghĩ rõ ràng, đây có thể là xương một con chuột túi đã chết. Pryor cúi xuống cầm lên một đoạn xương và đo nó vào đùi của chính mình, nó dường như có cùng độ dài với đùi của ông. Pryor đặt xương xuống và đi tiếp về phía trước.

Đi quanh một lúc, ông nhìn thấy một cảnh mà làm rợn cả gai ốc. Hai hốc mắt lồi ra của một hộp sọ dường như đang nhìn ông. Đó là một chiếc đầu lâu nhỏ, còn trẻ hoặc là của một phụ nữ. Một phần của hàm dưới đã bị phá vỡ, ông đến nhìn gần hơn, thấy trên trán chiếc đầu lâu có một vết thương trông giống như một vết đâm từ dao. Lúc này Pryor đang nghĩ trong đầu là nhanh chóng báo vụ việc cho cảnh sát. Nửa giờ sau, Thanh tra Peter Lovell và Steven Murphy đã xuất hiện tại hiện trường.

Hai nạn nhân mới

Tin tức của sự phát hiện ra hai thi thể mới trong rừng lan rộng nhanh chóng. Các phóng viên và đoàn làm phim đã xếp hàng dài tại các con đường vào, để cố gắng vào được khu vực. Họ suy đoán để nhận dạng các nạn nhân mới nhất. "Đó có phải là các cặp vợ chồng người Đức hoặc có thể các cặp vợ chồng từ Victoria?"  - họ hỏi thám tử tại hiện trường. Các nhà điều tra không nói gì, tâm trí của họ đã bị suy nghĩ bởi các câu hỏi của riêng mình.

Qua thu nhặt được các vật dụng cá nhận của các nạn nhân, các điều tra viên xác định được đó là James Gibson và Deborah Everist đều sống tại tiểu bang Victoria. Họ đã bị mất tích từ năm 1989. Thời gian đó, máy ảnh và ba lô của Gibson được cảnh sát tìm thấy nằm bên cạnh đường phía bắc Belangalo và cách các thi thể này khoảng 78 dặm. Lúc này cảnh sát rất bối rối. Nếu một trong những nạn nhân là Gibson, thì làm thế nào tài sản của cô lại xuất hiện cách đó đến 78 dặm? Hơn nữa, các bức ảnh lấy ra từ máy ảnh của Gibson đều được chụp ở đồng bằng, bên cạnh một đô thị phồn hoa. Có lẽ kẻ giết người đã làm vậy để đánh lừa hướng chú ý của điều tra viên. Qua điều tra hai bộ xương các thanh tra đều thấy hai thi thể đều thiếu một số các bộ phận, có thể do động vật tha đi. Ngày hôm sau Tiến sĩ Bradhurst bắt đầu nhiệm vụ xây dựng lại bộ xương để giải phẫu. Các bộ xương đã được đun sôi trong một giải pháp đặc biệt để làm sạch và làm cho dễ dàng nhận biết bất kỳ các thương tích nào.

Qua xét nghiệm thi thể của James Gibson, Bradhurst nhận thấy cô bị một vết đâm vào chính giữa xương sống xuyên từ ngực xuống, vết đâm đó đã làm tê liệt nạn nhân. Hung thủ đâm nạn nhân có thể có một thân hình rất to và khỏe mạnh. Xem xét toàn bộ thi thể, Tiến sĩ Bradhurst thống kê được rằng Gibson bị đâm tất cả 7 nhát, đều ở bên ngực trái, phải và ức, các vết đâm đều rất sâu, khích thước của các vết đâm rất giống với những vết đâm được gây ra cho hai nạn nhân trước đó là Walters và Clarke.

Bộ xương thứ hai, một phần của hàm bị vỡ, một số xương đã gãy vụn, trên trán có hai vết dao gạch chéo không đủ sâu để gây tử vong cho nạn nhân. Một vết đâm xuyên từ ngực trước ra phía sau. --PageBreak--

Điều tra và xét xử

Cảnh sát trưởng Tony Lauer được giao trách nhiệm trực tiếp điều tra vụ án này. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là kết hợp các nhóm lực lượng với nhau, tiếp theo là thiết lập một đường dây nóng phối hợp với cộng đồng và các phương tiện truyền thông. Lauer chia khu rừng làm 5 vùng, mỗi vùng sẽ có 40 cảnh sát đi bộ lùng soát. Nếu tìm thấy được bất cứ điều gì, họ sẽ la lên và các nhà điều tra sẽ đến chụp ảnh, đánh dấu vị trí trên bản đồ. Các đội tìm kiếm được tăng cường bởi các chú chó đã được huấn luyện đặc biệt để phát hiện sự hiện diện của phốt pho và nitơ trong đất. Một cơ thể đang phân hủy sẽ thải ra dấu vết của các hóa chất này lâu dài sau khi chết. Trong khi đó một nhóm người tiến hành thu giữ các khẩu súng trường của cư dân trong khu vực xung quanh rừng.

Các thành viên của câu lạc bộ súng địa phương đã được liên lạc và mang vũ khí của họ đến kiểm tra. Một trong những thành viên đã nói với các thám tử rằng, một người bạn của ông đã chứng kiến một cái gì đó đáng ngờ trong rừng một năm về trước. Cảnh sát sau đó liên lạc với người bạn đó và được ông mô tả cực kỳ chính xác hình dáng của hai chiếc xe lạ đi vào rừng năm đó, một chiếc trong đó là xe mang nhãn hiệu Sedan Ford. Ông nói với họ rằng, đã nhìn vào và thấy một người đàn ông lái xe và ghế sau là hai người đàn ông khác. Giữa họ là một phụ nữ với một miếng vải buộc quanh đầu. Trong chiếc xe thứ hai có hai người đàn ông, một lái xe và một ngồi phía sau canh chừng một phụ nữ cũng bị bịt kín đầu. Ông đã mô tả chi tiết cho cảnh sát tất cả các người trên xe, mặc quần áo màu sắc gì và độ tuổi xấp xỉ bao nhiêu…

Hai mươi sáu ngày đã trôi qua kể từ khi cơ thể Deborah Everist được tìm thấy trong rừng. Những người tìm kiếm đã quá mệt mỏi. Họ đã lùng sục khắp khu rừng Belangalo nhưng cũng chẳng tìm kiếm được gì hơn. 

Thời gian này, qua đường dây nóng cảnh sát nhận được hàng nghìn cuộc gọi của công chúng đề xuất đến hàng loạt các đối tượng mà họ tình nghi. Tất cả các cuộc gọi đó chủ yếu được lưu lại trên máy tính. Hai thanh tra cao cấp là Gordon và McCluskey Constables được giao nhiệm vụ theo dõi và nghiên cứu các tập tin đó. Gordon nhìn vào tên file có thư mục là "Milat". Ông đọc hết nội dung trong đó và quyết định điều tra thêm về người đàn ông có tên là Ivan Milat này. Gordon đến công ty của Ivan Milat làm việc, ông được báo cáo rằng Ivan là một nhân viên chăm chỉ và được đánh giá cao trong công việc. Khi Gordon hỏi người phụ trách Milat về thời gian nghỉ vừa qua thì được biết. Trong những khoảng thời gian nghỉ của Milat thì thường trùng với thời gian các vụ giết người xảy ra. Gordon cảm thấy rằng Milat là một trong những nghi phạm chính của vụ án, nhưng khi ông đưa ra ý kiến với cấp trên của mình, thì ông nhận được câu nói "tìm thêm bằng chứng."

Gordon tìm kiếm hồ sơ hình sự và thấy rằng, Ivan Milat đã bị kết tội và đã ngồi tù nhiều năm. Năm 1971, Ivan đã bị hai cô gái đi bộ đường dài từ Liverpool đến Melbourne cáo buộc hãm hiếp họ. Cả hai cô gái đều kể , Milat đã trang bị một con dao lớn và mang theo một sợi dây thừng dài. Milat sau đó được tha bổng khi các trường hợp truy tố không chứng minh được hung thủ. Ngay sau khi tìm được những thông tin đó, 4 thanh tra được giao phó theo dõi Milat 24/24h.

Chịu khó tìm kiếm bằng chứng hỗ trợ tiếp tục cho vụ án tới tháng 3 năm 1994. Các thanh tra đã thu được hồ sơ của tất cả các mặt bằng và phương tiện mà Milat đã sở hữu trong quá khứ. Họ thấy rằng Milat sở hữu một tài sản nhỏ trên con đường Wombeyan Caves cách 25 dặm từ rừng Belangalo. Ngoài ra, một trong những chiếc xe được tìm thấy là màu bạc mang nhãn hiệu "Nissan Patrol" đã được sở hữu bởi Ivan Milat.

Phỏng vấn chủ sở mới của chiếc xe đó thanh tra được biết. Milat đã bán chiếc xe hai tháng sau khi các thi thể của hai cô gái người Anh được phát hiện. Chủ sở hữu mới cũng cho biết thêm, ông ta đã tìm thấy một viên đạn dưới chỗ ngồi của lái xe. Đó là viên đạn có cỡ nòng 22mm, phù hợp những viên đạn đã được tìm thấy trên thi thể Caroline Clarkes. Thanh tra Gordon và nhóm của ông đã khám phá ra nhiều mảnh chứng cứ nhưng vẫn cần một cái gì đó để dàng buộc tất cả với nhau. Họ cố gắng sử dụng các cơ sở dữ liệu trong các cuộc gọi nóng.

Ngày 13 tháng 4 năm 1994, Gordon đọc một file trong cuộc gọi đến đường dây nóng có tên là Paul, thời gian gọi là năm tháng trước đó. Ông đọc báo cáo mô tả các sự kiện của tháng 1 năm 1990. Nội dung chính của file là "Một người đàn ông có tên là  Paul đã may mắn trốn thoát khỏi một tên giết người khi ông đi nhờ xe của hắn trên đoạn đường gần rừng Belangalo. Paul cũng mô tả chi tiết về chiếc xe, khu vực, nơi cuộc tấn công đã xảy ra, hình dáng người lái xe…". Khi Gordon đọc xong, ông nhận ra rằng người đàn ông này là một nhân chứng đáng tin cậy, lời khai của Paul có thể cung cấp cho họ các dữ liệu mà họ đang tìm kiếm.

Vào cuối tháng tư, Paul đã được mời đến phòng điều tra. Ông được xem một đoạn video "xếp hàng" của một nhóm người bị tình nghi của vụ án, mỗi hình ảnh được đánh số riêng từ 1-13. Paul xem những hình ảnh ấy rất nhiều lần. Ông cảm thấy lạ, đã 4 năm trôi qua kể từ ngày ông bị tấn công và lúc này Paul đang nhận dạng ra hung thủ đã định sát hại mình. Paul nhìn qua băng một lần nữa. Hai hình ảnh dường như nổi bật, số bốn và bảy.

Một thời gian ngắn sau đó, ông gọi là các thanh tra và chỉ vào hình ảnh duy nhất trên màn hình rồi nói "số bốn". "Bạn có chắc?" - các thanh tra hỏi Paul. Ông hoảng sợ bởi câu hỏi của họ. Paul cho chạy qua băng nhiều lần hơn và cuối cùng tuyên bố: "Có, tôi chắc chắn, người đàn ông tấn công tôi là số bốn" - Paul đã xác định kẻ tấn công ông 4 năm trước đúng là Ivan Milat. Các thanh tra thở phào nhẹ nhõm, bây giờ họ đã có đủ bằng chứng để bắt giữ Ivan Milat. Lệnh bắt Ivan Milat đã được thực hiện ngay sau đó. Khám xét nơi ở của hắn, cảnh sát thu được súng trường, súng ngắn, dao, nỏ và một số lượng đạn rất lớn. Trong ngôi nhà, cảnh sát cũng tìm thấy đồ dùng của tất cả các nạn nhân. Lục soát ngôi nhà của mẹ Ivan Milat, cảnh sát đã tìm thấy một thanh kiếm dài và cong. Qua nghiên cứu, những đầu đạn bắn vào nạn nhân, cảnh sát nhận thấy những đầu đạn đó đều được bắn ra từ khẩu súng trường tìm được trong nhà Ivan Milat.

Trước những bằng chứng không thể chối cãi, Ivan Milat bị kết tội đã ra tay sát hại 7 khách du lịch và chờ ngày toà phán quyết. Đáng lẽ phiên toà xét xử Ivan dự định sẽ diễn ra vào tháng 2 năm 1995, nhưng do một vài rắc rối trong việc tập hợp giấy tờ, ngày phán xét đã hoãn lại cho tới tháng 6 năm 1996. Cuối cùng, sau nhiều ngày chờ đợi, người dân Australia đã được nghe bản cáo trạng tuyên bố mức hình phạt gã sát nhân gây chấn động quốc gia này vào ngày 27 tháng 7 năm 1996. Với tội danh tấn công Paul Onions, Ivan Milat phải chịu mức án 6 năm tù. Còn với tội giết Caroline Clarke, Joanne Walters, Simone Schmidl, Anja Habschied, Gabor Neugebauer, James Gibson và Deborah Everist, hắn phải chịu một án tù chung thân cho mỗi tội danh giết người.

Được biết, cho đến nay, Ivan Milat vẫn sống và đang bị giam tại Goulburn Gaol, nhà tù dành cho nam giới được bảo vệ nghiêm ngặt nhất Australia. Tháng 01 năm 2009, hắn đã dùng dao tự cắt ngón tay út của mình để gửi lên toà án tối cao với mục đích kháng cáo. Nhưng tất cả chỉ là những cố gắng bất thành của tên tội phạm đã đi vào lịch sử đất nước

Lê Hiếu
.
.
.