Chăm lo đời sống cho các nghệ nhân dân gian

Chủ Nhật, 27/01/2019, 15:53
HĐND tỉnh Bắc Ninh vừa thông qua "Quy định chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân Dân ca quan họ Bắc Ninh". Theo đó, những nghệ nhân Dân ca quan họ đã được Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh phong tặng đợt 1 sẽ được thụ hưởng đồng thời mức hỗ trợ hàng tháng bằng 1 lần mức lương tối thiểu, được hỗ trợ mức phí tham gia bảo hiểm y tế hàng năm, được hưởng chế độ mai táng phí áp dụng như đối với công chức, viên chức Nhà nước.


Trong bối cảnh còn nhiều bất cập trong đãi ngộ nghệ nhân dân gian nói chung, việc làm này của Bắc Ninh dành cho các nghệ nhân quan họ thể hiện sự quan tâm thiết thực đối với những người giữ gìn tinh hoa văn hóa của quê hương, dân tộc.

Chăm lo "báu vật nhân văn sống"

Bắc Ninh hiện chỉ còn 37 nghệ nhân Dân ca quan họ là những người đóng vai trò then chốt, đã và đang cống hiến trí tuệ, tài năng, tâm sức trong việc lưu giữ và truyền dạy những giá trị tinh hoa, độc đáo của Di sản văn hóa quan họ, một loại hình văn hóa độc đáo được UNESSCO công nhận.

Trao tặng danh hiệu cho các nghệ nhân hát xoan, Phú Thọ.

Trong những năm qua, một số nghệ nhân cao tuổi đã qua đời, số nghệ nhân còn lại ít ỏi khiến cho công tác giữ gìn, lưu truyền di sản cho các thế hệ sau càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Mỗi địa phương, nơi sản sinh ra các loại hình nghệ thuật là di sản của nhân loại cần phải nhận thức rõ nhất về trách nhiệm của mình với các nghệ nhân, những báu vật nhân văn sống.

Vì các nghệ nhân chính là linh hồn của các loại hình thể thuật đó. Trong nhiều địa phương có di sản văn hóa phi vật thể được tôn vinh thì Bắc Ninh là địa phương đi đầu, thực hiện tốt những cam kết với UNESSCO trong giữ gìn di sản Dân ca quan họ. "Quy định chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân của Dân ca quan họ Bắc Ninh" đã đưa ra những mức hỗ trợ thiết thực cho những nghệ nhân được phong danh hiệu.

Những nghệ nhân cao tuổi nhất (được phong đợt 1) nhận lương hàng tháng bằng mức lương tối thiểu của Nhà nước. Các nghệ nhân này cũng được hỗ trợ bảo hiểm y tế hàng năm, được hưởng các chế độ mai táng phí như công nhân viên chức nhà nước.

Các nghệ nhân gạo cội này cũng sẽ được UBND tỉnh Bắc Ninh tiếp tục lập danh sách đề nghị Chủ tịch nước đề nghị phong tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, để họ được hưởng các chế độ khen thưởng khác theo quy định của Nhà nước.

Nếu khi đã được phong danh hiệu rồi mà nhà nước không có chế độ đãi ngộ cho nghệ nhân, thì các nghệ nhân có danh hiệu đó sẽ tiếp tục được nhận hỗ trợ của tỉnh bằng 2 lần mức lương tối thiểu mỗi tháng. Đây có lẽ là một tin vui lớn đối với các nghệ nhân Dân ca quan họ. Vì phần lớn trong số họ đã cao tuổi, không có thu nhập thường xuyên nên cuộc sống rất khó khăn, bấp bênh.

Một điều đặc biệt nữa là, bên cạnh việc thông qua quy định chế độ đãi ngộ với nghệ nhân quan họ, tỉnh Bắc Ninh còn mở rộng đối tượng cho những nghệ nhân ca trù trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, khi được Chủ tịch UBND tỉnh phong tặng danh hiệu nghệ nhân, các nghệ nhân ca trù cũng sẽ được vận dụng thụ hưởng mức thưởng và chế độ đãi ngộ áp dụng như nghệ nhân Dân ca quan họ Bắc Ninh.

Được biết, các nghệ nhân Dân ca quan họ Bắc Ninh hiện nay đều là những người có trình độ điêu luyện trong lối hát và lối trình diễn. Mỗi nghệ nhân sở hữu ít nhất 300 bài quan họ cổ, đồng thời có thời gian thực hành và diễn xướng dân gian từ 50 đến 60 năm.

Hầu hết các nghệ nhân đều đến với quan họ từ rất sớm, khi mới khoảng 10 tuổi. Ban đầu họ học từ các liền anh, liền chị trong những canh hát. Rồi họ dần trở thành những giọng hát chính trong những canh hát đám, hát hội của làng. Quan họ đã theo các nghệ nhân suốt những năm tháng cuộc đời, từ lúc tóc còn xanh đến lúc đầu bạc răng long. Tiêu biểu như nghệ nhân Ngô Thị Nhi.

Không chỉ cụ Nhi, mà 7 người con của cụ cũng theo con đường trở thành người hát quan họ. Con trai cả của cụ Nhi là Nguyễn Văn Ký, một nhà nghiên cứu, sưu tầm nhiều bài quan họ cổ độc đáo. Cả gia đình cụ Nhi tham gia vào công việc giữ gìn, truyền dạy Dân ca quan họ cho lớp con cháu trẻ tuổi trong làng.

Nhiều nghệ nhân vẫn chưa được đãi ngộ xứng đáng

Bắc Ninh là địa phương gương mẫu đi đầu, và vẫn là địa phương hiếm hoi trong cả nước có chế độ đãi ngộ thỏa đáng dành cho các nghệ nhân dân gian. Trên thực tế, nhiều nghệ nhân thuộc các loại hình di sản khác vẫn phải đang sống trong những điều kiện hết sức khó khăn.

Hai nghệ nhân quan họ  Ngô Thị Lịch và  Ngô Thị Nhi ở Bắc Ninh.

Chính phủ đã ban hành nghị định quy định về việc hỗ trợ đối với Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, chủ trương như vậy, nhưng thực tế thì số nghệ nhân nhận được hỗ trợ mới chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Con số nghệ nhân dân gian được phong tặng danh hiệu trong cả nước hiện nay đã lên đến hàng nghìn người. Phần lớn trong số họ chỉ được nhận đãi ngộ phần thưởng, giấy khen một lần rồi… thôi.

Thông thường, mỗi Nghệ nhân ưu tú được tặng kèm danh hiệu số tiền thưởng 10 triệu đồng, Nghệ nhân nhân dân được nhiều hơn một chút. Ngoài tấm bằng vinh danh và số tiền thưởng khoảng 10 triệu đồng, phần lớn các nghệ nhân không nhận được sự trợ giúp nào khác từ Nhà nước và cộng đồng.

Nghị định của Chính phủ về hỗ trợ cho các nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú có hoàn cảnh khó khăn thực thi từ năm 2016 đến nay là một "điểm sáng" trong chăm sóc người có công lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống, với ba mức hỗ trợ là 1 triệu đồng, 850.000 đồng và 700.000 đồng cho mỗi người hằng tháng.

Tuy nhiên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ước tính, mới có khoảng 600 nghệ nhân được hưởng trợ cấp khó khăn theo tinh thần của Nghị định. Con số này vẫn là nhỏ so với hàng nghìn nghệ nhân đã được phong danh hiệu. Vẫn còn rất nhiều "báu vật nhân văn sống" đang phải sống trong cảnh già yếu, không có trợ cấp, không được bảo đảm cuộc sống tốt để có thể cống hiến kinh nghiệm, trí tuệ của mình cho cộng đồng.

Quan họ ngày xuân.
Các nghệ nhân bài chòi ở Phú Yên.

GS, TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian chia sẻ: Phần lớn các nghệ nhân đều là những người nghèo, tuổi cao, thậm chí mù chữ; sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh như miền núi cao, Tây Nguyên. Chính sách của Nhà nước không dễ đến được với họ, nhất là phải trải qua những thủ tục hành chính bắt buộc ở địa phương.

Có những địa phương, chính lãnh đạo cũng không nắm được chủ trương này dành cho các nghệ nhân. Nhiều nghệ nhân đến giờ phút này vẫn chưa nhận được trợ cấp, thậm chí có những người đã qua đời trong sự chờ đợi.

Thời kỳ đầu, khi mới có chủ trương phong danh hiệu nghệ nhân, GS Tô Ngọc Thanh đã kết nối được với Quỹ Ford cùng hỗ trợ các nghệ nhân bằng cách mở lớp học truyền dạy kinh nghiệm cho lớp trẻ, giúp họ vừa có thêm thu nhập, lại được cống hiến kinh nghiệm cho cộng đồng. Tuy nhiên, nguồn tài trợ này không được lâu.

Những người tâm huyết với văn hóa dân gian như GS Tô Ngọc Thanh cũng đã đi kêu gọi các nguồn lực xã hội hóa để tạo điều kiện cho các nghệ nhân được lao động bằng chính vốn văn hóa của mình, nhưng kết quả chưa nhiều. Một vài địa phương có lập quỹ hỗ trợ nghệ nhân dân gian, như tỉnh Gia Lai mỗi tháng trợ cấp thêm cho một nghệ nhân khoảng 300 nghìn đồng.

Những việc làm thiết thực như vậy rất tiếc còn ít và còn yếu, chưa thực sự có tác động thay đổi cuộc sống của những "báu vật nhân văn sống".

Chúng ta biết rằng, phần lớn các nghệ nhân dân gian đều đã cao tuổi. Mọi chính sách hỗ trợ họ cần phải được hiện thực hóa sớm nhất có thể. Sự hỗ trợ kịp thời không chỉ đề cao tính nhân văn trong chính sách của Đảng, Nhà nước với người có đóng góp trong văn hóa khi tuổi đã cao, mà còn tranh thủ, phát huy được các giá trị di sản văn hóa quý báu mà các nghệ nhân lưu giữ suốt một đời.

Bằng tài năng, tâm huyết và trình độ nghề nghiệp của mình, NNDG đã tự mình sáng tạo hoặc chắt lọc sáng tạo của cả cộng đồng, góp phần bổ sung, làm giàu đẹp thêm cho truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Họ đóng vai trò then chốt, nếu không có họ, chắc chắn một khối lượng lớn giá trị văn hóa sẽ không được bảo lưu một cách tập trung nhất, cũng như sẽ không có thầy để truyền dạy cho lớp trẻ…

Nếu địa phương nào cũng chăm lo đời sống cho các nghệ nhân dân gian được như Bắc Ninh thì chắc chắn các di sản văn hóa của dân tộc, của nhân loại sẽ được đắp bồi thêm vững chắc bởi chính những đóng góp của họ, khi họ có thể toàn tâm toàn ý cống hiến mà không phải lo miếng cơm manh áo hàng ngày. Câu chuyện ở Bắc Ninh cũng chỉ ra, công tác chăm lo cho các nghệ nhân phải bắt đầu từ cơ sở, từ địa phương, chứ không nên trông chờ tất cả vào Nhà nước.

Bùi Xuân
.
.
.